Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong thị trường thương mại số hóa

Môi trường thương mại số hóa là sự kết hợp giữa công nghệ thông tin, viễn thông, kỹ thuật số và thương mại thuần túy, phá vỡ ranh giới địa lý, cũng như giới hạn về số lượng của việc trao đổi sản phẩm, dịch vụ, thông tin dữ liệu. Giá trị lợi nhuận mà tài sản trí tuệ đặc biệt này đem lại rất lớn, và về mặt tinh thần còn khuyến khích mạnh mẽ hoạt động sáng tạo của con người.

Việc sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) trong “thế giới phẳng” này đòi hỏi sự quan tâm xác đáng, nỗ lực thực thi, giám sát chặt chẽ của chủ thể quyền, nhà nước và các tổ chức, cá nhân liên quan. Bài viết nghiên cứu về các phương thức bảo vệ quyền SHCN trong thị trường thương mại số hóa ở Việt Nam hiện nay.

1. Đặt vấn đề

Công nghệ thông tin phát triển, Internet và các mạng mở là môi trường thúc đẩy quan hệ thương mại số hóa, các tài sản trí tuệ được đưa vào giao dịch thương mại điện tử ngày càng nhiều. Về mặt pháp lý, pháp luật thương mại điện tử và pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam là cơ sở cho việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong thị trường thương mại số hóa tạo niềm tin cho các bên khi tham gia môi trường trực tuyến đầy rủi ro.

Các điều ước quốc tế song phương và đa phương về sở hữu trí tuệ mà Việt Nam là thành viên cũng thể hiện rõ ý chí bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp: Hiệp định song phương Việt Nam – Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp; Hiệp định thương mại về Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS);…

Khi thương mại điện tử Việt Nam chuyển sang giai đoạn phát triển nhanh, vấn đề bảo vệ quyền SHCN được đặt ra nhằm chống lại những hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thị trường thương mại số hóa.

2. Bảo vệ quyền SHCN trong thị trường thương mại số hóa

Đối tượng của quyền SHCN được số hóa

Đối tượng quyền SHCN trong thương mại điện tử bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại được số hóa (Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ). Thiết kế mạch tích hợp bán dẫn và chỉ dẫn địa lý không phải là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử.

Chỉ dẫn địa lý được tạo bởi tên gọi, hình ảnh, biểu tượng gắn liền khu vực địa lý nhằm mục đích chỉ rõ nguồn gốc của sản phẩm hàng hóa, có thể được truyền tải trên phương tiện điện tử, tuy nhiên, chỉ dẫn địa lý không phải là đối tượng của các giao dịch thương mại điện tử nên không được xem là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử.

Thiết kế mạch tích hợp bán dẫn được thiết kế trong không gian ba chiều gồm các phần tử liên kết của mạch điện tử dưới dạng thành phẩm không thể truyền tải như thông điệp dữ liệu hay sản phẩm số hóa trên phương tiện điện tử, do đó mạch tích hợp cũng không được xem là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử.

Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên (Khoản 12 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ). Tuy nhiên, sáng chế trong thương mại điện tử không bao gồm giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm mà phải là giải pháp kỹ thuật số hoặc quy trình kỹ thuật số, chẳng hạn: các hệ thống công nghệ mới trên trang web, các công cụ tra cứu, các công cụ kỹ thuật trên trang web (tin nhắn, hệ thống tạo lập cung cấp tin tức, bình luận xã hội, hiển thị quảng cáo, kiểm soát thông tin riêng tư, công cụ chia sẻ ảnh).

Các phương thức bảo vệ quyền SHCN

Nhà nước công nhận quyền sở hữu công nghiệp, các chủ thể quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự xâm phạm từ cá nhân, tổ chức khác. Luật Sở hữu trí tuệ dành riêng Phần năm (gồm 3 chương XVI-XVIII, 22 điều) để quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử chính là việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn hoặc xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN, trong đó chủ thể quyền có thể tự bảo vệ hoặc  thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý xâm phạm như khiếu nại, tố cáo với các cơ quan chức năng (cơ quan Thanh tra, cơ quan Công an, Quản lý thị trường) hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử bao gồm: Tự bảo vệ; Xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử bằng biện pháp dân sự, biện pháp hành chính, hoặc biện pháp hình sự tùy theo tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm.

3. Thực trạng thực thi các phương thức bảo vệ quyền SHCN trong thị trường thương mại số hóa ở Việt Nam hiện nay

Thực thi quyền tự bảo vệ

Phương thức tự bảo vệ được chủ thể quyền và các cá nhân, tổ chức liên quan lựa chọn đầu tiên trước khi áp dụng phương thức xử lý hành vi xâm phạm, quyền tự bảo vệ thể hiện ý chí định đoạt cao và chủ động.

Biện pháp thứ nhất, để tránh các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử xảy ra, chủ thể quyền có thể đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại Cục Sở hữu trí tuệ, Văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ tại TP. Hồ Chí Minh, TP. Đà Nẵng. Hàng năm, Cục Sở hữu trí tuệ tiếp nhận, xử lý hàng chục ngàn đơn đăng ký và cấp văn bằng bảo hộ (75.742  đơn năm 2019, 64.889 đơn năm 2018), số lượng tăng dần qua mỗi năm thể hiện ý thức bảo vệ quyền SHCN ngày càng được các chủ thể chú trọng.

Biện pháp thứ hai, áp dụng công nghệ có thể ngăn ngừa hành vi xâm phạm. Biện pháp này nhằm công bố quyền SHCN được bảo hộ hoặc sử dụng công nghệ kỹ thuật để đánh dấu phân biệt, bảo vệ tài sản SHCN được bảo hộ, khuyến cáo mọi cá nhân, tổ chức không được xâm phạm. Các biện pháp công nghệ mà chủ thể áp dụng để công khai quyền sở hữu công nghiệp của mình như sử dụng website, trang mạng xã hội, thư điện tử, trên nền thiết bị di động, truyền hình, truyền thanh hoặc công nghệ kỹ thuật đánh dấu, bảo vệ như mã hóa tác phẩm, tường lửa.

Biện pháp thứ ba, yêu cầu chấm dứt hành vi, xin lỗi, cải chính, buộc bồi thường thiệt hại được thực hiện bởi chủ thể quyền đối với cá nhân, tổ chức có hành vi xâm phạm. Trong thế giới phẳng, khó khăn nhất là việc xác định chủ thể có hành vi xâm phạm khi các cá nhân, tổ chức ở nước ngoài hoặc đăng ký website ở nước ngoài. Biện pháp này cũng không có hiệu quả khi cá nhân, tổ chức cố tình tiếp tục hành vi, không cải chính, xin lỗi, không thực hiện việc bồi thường thiệt hại.

Biện pháp thứ tư, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo. Nếu ba biện pháp trên thực hiện không hiệu quả thì chủ thể mới gửi đơn khiếu nại đến Cục Sở hữu trí tuệ, gửi đơn tố cáo đến cơ quan Công an hoặc yêu cầu các cơ quan hành chính xử lý vi phạm. Biện pháp này đòi hỏi chủ thể gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu rườm rà hơn.

Biện pháp thứ năm, chủ thể có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bằng cách khởi kiện tại Tòa án nhân dân hoặc Trọng tài thương mại giải quyết vụ việc dân sự. Cho đến nay, không có vụ tranh chấp quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử nào giải quyết tại Trọng tài thương mại, chủ thể quyền thường chọn giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án.

Thực thi các biện pháp xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

So với phương thức tự bảo vệ, các biện pháp xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sử dụng quyền lực nhà nước để giải quyết các vụ việc xâm phạm, có tính chất răn đe, phòng ngừa cao.

Phương thức xử lý xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử bằng biện pháp dân sự, hành chính hoặc hình sự, trong đó biện pháp dân sự đóng vai trò quan trọng nhất. Biện pháp hành chính, biện pháp hình sự nhằm mục đích trừng phạt, giáo dục, ngăn chặn hành vi xâm phạm, còn biện pháp dân sự hướng đến mục đích khôi phục quyền tài sản, quyền nhân thân cho chủ thể, chủ thể có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại vật chất và tinh thần.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, điều tra, xét xử: Quản lý thị trường, cơ quan Thanh tra, Ủy ban nhân dân các cấp, Cơ quan Công an (Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự kinh tế, Cảnh sát điều tra tội phạm công nghệ cao,…), Tòa án nhân dân các cấp. Mặc dù nhiều cơ quan có cùng thẩm quyền áp dụng các biện pháp hành chính nhưng vụ việc sẽ thuộc thẩm quyền của cơ quan thụ lý vụ việc đầu tiên.

Hầu hết các vụ việc xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử hiện nay chủ yếu được xử lý bằng biện pháp hành chính, số vụ việc giải quyết tại Tòa án chiếm tỷ lệ nhỏ. Các bên khởi kiện ra Tòa án luôn gặp khó khăn và mất thời gian trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh chủ thể quyền, hành vi xâm phạm và thiệt hại, nếu chứng cứ không đầy đủ thì Tòa án không chấp nhận, Tòa án chỉ có chức năng xét xử nếu có đơn khởi kiện của các bên chứ không có chức năng xác thực chứng cứ.

Nếu lựa chọn phương thức giải quyết bằng biện pháp hành chính, các chủ thể cũng có nghĩa vụ nộp chứng cứ chứng minh nhưng trách nhiệm chứng minh không cao, bởi vì sau khi thụ lý các cơ quan chức năng sẽ tiến hành thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra để tiếp tục xác minh. Bên cạnh đó, thời gian xử lý xâm phạm nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của các chủ thể trong kinh doanh thương mại.

Thủ tục đơn giản chỉ bằng cách nộp đơn yêu cầu xử lý và tài liệu, chứng cứ kèm theo nhưng không đòi hỏi nghĩa vụ chứng minh cao như tố tụng tư pháp. Các cơ quan hành chính đều là các cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực bị xâm phạm nên việc kiểm tra, xử lý nhanh hơn trong khi Tòa án cần sự trợ giúp của các cơ quan này trong việc giám định. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử cần được giải quyết bằng biện pháp dân sự thì lại bị “hành chính hóa”.

Theo quy định tại Điều 226 Bộ luật Hình sự, tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp chỉ bị xem là tội phạm ít nghiêm trọng, khung cao nhất đối với người phạm tội là phạt tù đến 03 năm, đối với pháp nhân là phạt tiền đến 3 tỷ đồng, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. Xu hướng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử sử dụng công nghệ cao ngày càng gia tăng, thiệt hại rất lớn đối với doanh nghiệp, xã hội, trong khi đó hình phạt áp dụng còn nhẹ. Phương thức xử lý bằng biện pháp hình sự không được các bên lựa chọn hoặc chưa đến mức xử lý trách nhiệm hình sự để bị tố cáo, khởi tố.

4. Một số khuyến nghị nâng cao năng lực thực thi bảo vệ quyền SHCN trong thị trường thương mại số hóa

Thứ nhất, các cơ quan chức năng chỉ xử lý xâm phạm đối với những đối tượng quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử được bảo hộ. Nhờ công nghệ thông tin, đối tượng sở hữu công nghiệp số hóa xuất hiện nhiều hình thức mới chưa được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ: nhãn hiệu có âm thanh, quy trình sử dụng mới đối với sản phẩm đã biết (sáng chế), giao diện dùng đồ họa, bố trí màn hình, thuật toán, biểu đồ dữ liệu ẩn,… Luật Sở hữu trí tuệ cần quy định mở rộng phạm vi bảo hộ đối với tài sản trí tuệ số hóa được thể hiện trên các phương tiện điện tử nâng cao khả năng thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử nói chung, quyền SHCN nói riêng.

Thứ hai, thực tiễn xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử cho thấy hầu hết các vụ xâm phạm được giải quyết bằng biện pháp hành chính, khác biệt với các quốc gia trên thế giới (Anh, Mỹ, Nhật Bản,…), biện pháp dân sự ở các nước này được đánh giá cao. Pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam nên sửa đổi theo hướng tăng cường thực thi biện pháp dân sự đảm bảo quyền lợi của chủ thể quyền, xét đến cùng quyền sở hữu trí tuệ là quyền dân sự, khi bị xâm phạm cần được ưu tiên giải quyết bằng biện pháp dân sự.

Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái bình dương (TPP), Hiệp định Thương mại tự do – EU (EVFTA) thì biện pháp dân sự cần được chú trọng hơn. Phương thức giải quyết tại Tòa án có tính răn đe cao hơn biện pháp hành chính và khôi phục lợi ích của chủ thể quyền thông qua biện pháp buộc chấm dứt hành vi, bồi thường thiệt hại, áp dụng hình phạt, để ngăn chặn hiệu quả hành vi xâm phạm mà biện pháp hành chính không giải quyết được.

Thứ ba, thời gian xử lý một vụ án dân sự tính từ khi thụ lý đến khi đưa ra xét xử tại Tòa án chỉ quy định thời hạn tối thiểu, những vụ việc phải tạm đình chỉ để trưng cầu giám định thì thời gian kéo dài hơn, do đó pháp luật tố tụng nên quy định thời gian tối đa giải quyết vụ án về sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử là 6 tháng đáp ứng nhu cầu của các chủ thể.

Đồng thời để giảm bớt thời gian giải quyết vụ việc cần quy định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan chức năng, cụ thể trong quá trình giải quyết vụ việc Tòa án có quyền gửi văn bản lấy ý kiến hoặc yêu cầu lập hội đồng giám định, giới thiệu tổ chức giám định, giám định viên đến Cục Sở hữu trí tuệ, Sở Khoa học công nghệ, các cơ quan này có nghĩa vụ thực hiện theo yêu cầu của Tòa án trong thời gian nhất định theo từng vụ việc từ 3 ngày đến 15 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. Tòa án cũng có trách nhiệm thông báo vụ việc đến các cơ quan có liên quan để tham gia tố tụng, hỗ trợ trong quá trình xét xử, theo dõi kết quả xét xử, nếu có dấu hiệu vi phạm hình sự thì cơ quan điều tra nhận hồ sơ và chuyển vụ việc giải quyết.

Thứ tư, để tăng tính khả thi xử lý xâm phạm bằng biện pháp dân sự, biện pháp hình sự cần thiết lập Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ. Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ nên được xây dựng độc lập với các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp tỉnh, theo mô hình một số quốc gia trên thế giới: Tòa sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế Thái Lan, là một trong các Tòa thành lập sớm trong khu vực châu Á từ năm 1997; Tòa chuyên trách về sở hữu trí tuệ Malaysia thành lập từ năm 2007; Tòa sở hữu trí tuệ Nhật Bản thiết lập năm 2005 được tổ chức ở cấp Tỉnh; Anh thành lập Tòa sáng chế thuộc Tòa tối cao và Tòa dân sự sáng chế ở địa phương.

Việc thành lập Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ phải phù hợp với quy mô xét xử thực tại, số lượng vụ án sẽ phát sinh trong thời gian tới, số lượng Thẩm phán ở các Tòa. Tập trung thẩm quyền xét xử vào Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ đặt tại ba thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự, hành chính, hình sự sở hữu trí tuệ và mở rộng ở lĩnh vực thương mại điện tử, công nghệ cao: quảng cáo, tiếp thị, môi giới trực tuyến, tên miền quốc gia, tên miền quốc tế,… Ở các khu vực khác có số lượng vụ án sở hữu trí tuệ không nhiều thì chỉ đào tạo, bồi dưỡng nguồn Thẩm phán, Thư kí Tòa và bố trí Thẩm phán chuyên trách sở hữu trí tuệ.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền quy định nhiệm vụ cụ thể của Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ. Như vậy, cùng với việc thiết lập Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ cần sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, các văn bản luật liên quan về cơ cấu tổ chức, thẩm quyền chung của Tòa, và ban hành văn bản dưới luật quy định thẩm quyền, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức cụ thể của Tòa chuyên trách sở hữu trí tuệ.

Thứ năm, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc xét xử chung, đối với vụ án sở hữu công nghiệp cần có những nguyên tắc đặc thù riêng, trình tự thủ tục linh hoạt, đáp ứng nhu cầu giải quyết nhanh chóng, xử lý kịp thời chẳng hạn: Thời gian xét xử tối đa 4 tháng, những vụ việc phức tạp, có yếu tố nước ngoài là 6 tháng; Thẩm vấn đương sự thông qua ứng dụng điện tử trực tuyến có sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong và ngoài nước; Thẩm phán ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay khi các chủ thể yêu cầu, hoặc trường hợp cần thiết Thẩm phán ra quyết định bất cứ khi nào kể cả khi chưa thụ lý vụ án, ngày lễ tết; Nghĩa vụ đảm bảo thực hiện biện pháp khẩn cấp tạm thời của các chủ thể nâng cao hơn mức hiện nay và thực hiện ngay sau khi Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Nghĩa vụ tham gia tố tụng của các cơ quan chức năng, cá nhân, tổ chức chuyên môn sở hữu trí tuệ; Thu thập chứng cứ điện tử.

Thứ sáu, sắp xếp lại các khâu giải quyết khiếu nại, tố cáo, điều tra, kiểm tra, kiểm soát, phân bổ nhiệm vụ cụ thể giữa các cơ quan cùng có chức năng xử lý hành chính tránh sự chồng chéo, theo hướng quy định và thiết lập cơ quan đầu mối nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiểm tra là Thanh tra chuyên ngành. Tùy theo tính chất, mức độ xâm phạm quy định hình thức xử phạt và phân cấp quyền hạn cho từng cơ quan, cơ quan Thanh tra, Quản lý thị trường, Ủy ban nhân dân các cấp có quyền xử phạt hành chính, còn cơ quan Công an có thẩm quyền điều tra. Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền của Thanh tra chuyên ngành thì trực tiếp xử lý, chuyển hồ sơ cho các cơ quan chức năng nếu không thuộc thẩm quyền, những vụ việc có tính phức tạp, liên ngành thì thành lập Đoàn thanh tra liên ngành cùng thực hiện.

Cơ quan đầu mối giải quyết khiếu nại về đăng ký sở hữu công nghiệp, xác định hành vi xâm phạm giao cho Cục Sở hữu trí tuệ. Ở địa phương không có văn phòng đại diện Cục Sở hữu trí tuệ thì các chủ thể nộp đơn khiếu nại và nhận kết quả khiếu nại tại Sở Khoa học và Công nghệ, Sở có trách nhiệm phối hợp với cơ quan chức năng để giải quyết vụ việc.

Thứ bảy, trong quá trình xử lý xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp trong thương mại điện tử cần có sự phối hợp cao giữa Tòa án, các cơ quan chức năng. Như giải pháp đã nêu trên, các cơ quan chức năng (cơ quan Thanh tra, cơ quan Công an, Quản lý thị trường, Ủy ban nhân dân các cấp) có trách nhiệm tham gia tố tụng dân sự theo yêu cầu của Tòa án, có nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự, hành chính để theo dõi, chuyển hồ sơ, trợ giúp kịp thời cho Tòa án về chuyên môn, kết quả điều tra, kiểm tra, lập số liệu thống kê, xử lý liên quan. Giữa các cơ quan hành chính cũng phải phối hợp cùng nhau và với cơ quan đăng ký bảo hộ để nhanh chóng xác định yếu tố xâm phạm, rút ngắn thời gian xử lý, Cục Sở hữu trí tuệ có trách nhiệm trả lời công văn hoặc cử người tham gia Đoàn thanh tra liên ngành.

Xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, Bộ đang khẩn trương xây dựng Dự thảo Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã được triển khai thực hiện ngay từ đầu giai đoạn chiến lược 2011-2020 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, từ nước có thu nhập trung bình thấp lên nước có thu nhập trung bình cao.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08-11-2016 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21-02-2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện hai Nghị quyết trên.

Kết thúc giai đoạn 2016-2020, cơ cấu lại nền kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực. Mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Cơ cấu lại nền kinh tế với 3 trụ cột chính là đầu tư công, các tổ chức tín dụng và DNNN đã mang lại nhiều kết quả tích cực.

Tuy nhiên, tốc độ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trong khi đó, bối cảnh phát triển mới đang đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội mới, đòi hỏi cần có sự điều chỉnh trọng tâm kế hoạch cho phù hợp.

Đáng chú ý như, củng cố nền tảng vĩ mô để tạo dư địa chính sách, ứng phó với những cú sốc bên ngoài; tăng cường nội lực và khai thác thị trường trong nước; thúc đẩy chuyển đổi số và tăng cường ứng dụng tiến bộ công nghệ, đổi mới sáng tạo, tiến tới làm chủ tiến bộ công nghệ nhằm đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng.


Theo lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 dựa trên mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025, cũng như thực tiễn triển khai quá trình cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 và phân tích, dự báo bối cảnh phát triển đất nước giai đoạn tới.

Cụ thể, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra các mục tiêu phát triển: tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 6,5-7%; đến năm 2025 trở thành nước đang phát triển hướng đến công nghiệp hiện đại; đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại và đến năm 2045 trở thành nước phát triển.

Nhiệm vụ được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là tổ chức thực hiện hiệu quả và thực chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh. Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 được xây dựng nhằm cụ thể hóa và tổ chức triển khai nhiệm vụ trên.

Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 cũng được xây dựng trên cơ sở báo cáo kết quả và định hướng cơ cấu nền kinh tế của các Bộ, ngành, địa phương; khảo sát tại một số địa phương và các buổi trao đổi, tham vấn với các nhà khoa học, các chuyên gia và đại diện một số hiệp hội, doanh nghiệp.

Dự kiến, Chính phủ sẽ trình Quốc hội Dự thảo Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV.
 

Các doanh nghiệp cần lưu ý quy định hoàn thuế giá trị gia tăng để không bị phạt chậm nộp

Nếu không làm theo nguyên tắc nộp phạt chậm nộp sẽ xảy ra tình trạng DN lạm dụng chiếm dụng tiền hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) cho đến trước khi buộc phải nộp lại.

Vừa qua, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) phản ánh về việc có DN khi xuất khẩu hàng hóa xuất khẩu thuỷ sản được hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) nhưng sau một thời gian sau, vì lý do nào đó mà khách hàng trả lại hàng. DN phải làm thủ tục tái nhập lại hàng, đồng thời, ngoài việc kê khai và nộp lại tiền hoàn thuế GTGT đã nhận, còn phải nộp thêm tiền phạt chậm nộp.

VASEP cho rằng, việc DN phải nộp lại khoản hoàn thuế GTGT là đúng nhưng bị phạt tiền chậm nộp tính từ lúc xuất khẩu lô hàng là không công bằng đối với DN.

Cụ thể, căn cứ Khoản 3 Điều 1 của Luật số 106/2016/QH13: trường hợp cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT theo tháng, quý.

Căn cứ Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31-12-2013 của Bộ Tài chính quy định về điều kiện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu là phải có chứng từ thanh toán tiền hàng hoá xuất khẩu qua ngân hàng và các chứng từ khác theo quy định của pháp luật (số DN này được hoàn toàn bộ thuế GTGT đầu vào).

Đối với hàng hóa xuất khẩu bị trả lại, khách hàng nước ngoài không thực hiện thanh toán cho cơ sở kinh doanh tại Việt Nam, do đó cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán tiền hàng hóa xuất khẩu qua ngân hàng, không đáp ứng đủ điều kiện áp dụng thuế suất 0% đối với phần hàng hóa xuất khẩu bị trả lại (không đủ điều kiện hoàn thuế GTGT).

Như vậy, hàng hóa xuất khẩu bị khách hàng nước ngoài trả lại, nhập khẩu về nước thì hàng hóa đó không còn là hàng hóa xuất khẩu, không thuộc trường hợp được áp dụng hoàn thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu theo quy định của pháp luật.

DN cần thực hiện khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả và nộp lại số tiền thuế GTGT đã được hoàn tương ứng với giá trị hàng hoá xuất khẩu bị trả lại.

Tại khoản 1.c Điều 59 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-07-2020) đã có quy định về xử lý tiền chậm nộp đối với trường hợp người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả.

Theo đó, người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả hoặc cơ quan quản lý thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra phát hiện số tiền thuế được hoàn nhỏ hơn số tiền thuế đã hoàn thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền thuế đã hoàn trả phải thu hồi kể từ ngày nhận được tiền hoàn trả từ ngân sách nhà nước.

Chuyên gia Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam phân tích: cách xác định số tiền chậm nộp, tại Khoản 4, Khoản 5 Điều 133 Thông tư 38/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại khoản 66 Điều 1 Thông tư 39/2018/TT-BTC có quy định “Số tiền chậm nộp bằng mức tính số tiền chậm nộp nhân số ngày chậm nộp tiền thuế nhân số tiền thuế chậm nộp.  Mức tính số tiền chậm nộp là 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp”.

Số ngày chậm nộp tiền thuế được tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế, thời hạn gia hạn nộp thuế…

Hiện nay, để theo dõi và đôn đốc thu nộp tiền chậm nộp, hệ thống kế toán tập trung đã thiết lập tự động tính số tiền chậm nộp sau khi DN đã nộp tiền thuế nợ vào ngân sách Nhà nước (NSNN).

Thực tế, các DN đã được tạo điều kiện thuận lợi, hoàn trước và kiểm tra sau. Các DN được tự tính, tự khai tự nộp, nên nếu các DN hoàn thuế rồi nhưng không đủ điều kiện thì phải hoàn trả các khoản nợ thuế theo quy định. Điều này là cần thiết vì nếu không làm theo nguyên tắc nộp phạt chậm nộp trên sẽ xảy ra tình trạng DN lạm dụng chiếm dụng tiền hoàn thuế cho đến trước khi buộc phải nộp lại”, bà Nguyễn Thị Cúc phân tích.

Theo các chuyên gia, việc các DN phải trả tiền chậm nộp theo quy định là hợp lý vì thực chất các DN được tạm hoàn thuế trước, thì cũng đã được hưởng phần lãi ngân hàng. Nếu tính trên số tiền thuế được hoàn trước có lúc lên tới hàng tỷ đồng thì số tiền DN được hưởng lợi không phải nhỏ. Thực tế, cũng đã có DN có cố tình lợi dụng, chiếm dụng tiền vốn nhà nước. Do đó, phần phạt chậm nộp 0,03%/ngày là thấp hơn lãi suất ngân hàng được tính một cách tự động là điều công bằng cho các bên.

Cơ quan thuế cho biết thêm, thời gian qua, đã có nhiều chính sách tài khoá hỗ trợ cho DN bị thiệt hại do COVID-19. Riêng trong năm 2020, ngành thuế luôn đồng hành, lắng nghe ý kiến, nắm bắt khó khăn của DN để báo cáo cấp có thẩm quyền thực hiện các gói giảm, giãn thuế để hỗ trợ cho DN.

Ngay từ quý I/2020, Bộ Tài chính đã có giải pháp báo cáo Chính phủ để thực hiện thông qua Nghị định 41 về gia hạn GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).

Tổng số tiền thuế và thu ngân sách đã gia hạn, miễn, giảm theo các chính sách đã ban hành ước thực hiện cả năm đạt khoảng 123,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, số tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 87,3 nghìn tỷ đồng; số được miễn, giảm khoảng 36,4 nghìn tỷ đồng. 

Tổng cục Thuế cũng đã chủ động nghiên cứu, báo cáo cấp có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách giảm, gia hạn tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất. Năm 2021, ước tính số thuế, tiền thuê đất được gia hạn khoảng 115.000 tỷ đồng.

Mới đây nhất, để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, Bộ Tài chính đã chủ động trình Chính phủ ban hành hàng loạt chính sách gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất, miễn giảm lệ phí trước bạ…, nhằm giúp doanh nghiệp có dòng tiền duy trì sản xuất kinh doanh. Mới đây nhất, ngày 31/3, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 44/2021/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của DN tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19.

Các chuyên gia cho rằng, COVID-19 khiến các DN gặp nhiều khó khăn chung. Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, tuy nhiên, vẫn phải rành mạch. Các DN vẫn cần tuân thủ các quy định, nguyên tắc, thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, bảo đảm công bằng, hài hoà lợi ích giữa các DN với nhau cũng như giữa DN và nhà nước. 
 

Cải cách hệ thống thuế hướng đến quản lý bằng điện tử

Để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hướng đến một thể chế chính sách thuế minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế…, Tổng cục Thuế đang hoàn thiện dự thảo chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu điện tử hóa công tác quản lý thuế.

Tổng cục Thuế cho biết, để đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế, Tổng cục Thuế đang khẩn trương nghiên cứu và phối hợp với các đơn vị có liên quan để hoàn thiện dự thảo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Cũng theo lãnh đạo Tổng cục Thuế, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 sẽ được triển khai thành 2 giai đoạn. Giai đoạn từ 2021 – 2025 và giai đoạn từ 2026 – 2030. Việc chia thành 2 giai đoạn nhằm đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu, tạo tiền đề để ngành Thuế triển khai thắng lợi toàn bộ Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Các mục tiêu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 gồm: 

Thứ nhất, đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững của quy mô nguồn lực, có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho ngân sách nhà nước, góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp quản lý rủi ro, đồng thời dựa trên nền tảng thuế điện tử và ba trụ cột cơ bản (thể chế quản lý thuế đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập). Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới. Công nghệ thông tin hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế số.

“Chiến lược giai đoạn này phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp…” – ông Tuấn cho biết.

Chiến lược cũng nhằm tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.

Trước đó, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, sau 10 năm triển khai Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước.

Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính. Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.
 

Cải cách hệ thống thuế hướng đến quản lý bằng điện tử

Để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hướng đến một thể chế chính sách thuế minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế…, Tổng cục Thuế đang hoàn thiện dự thảo chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu điện tử hóa công tác quản lý thuế.

Tổng cục Thuế cho biết, để đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế, Tổng cục Thuế đang khẩn trương nghiên cứu và phối hợp với các đơn vị có liên quan để hoàn thiện dự thảo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Cũng theo lãnh đạo Tổng cục Thuế, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 sẽ được triển khai thành 2 giai đoạn. Giai đoạn từ 2021 – 2025 và giai đoạn từ 2026 – 2030. Việc chia thành 2 giai đoạn nhằm đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu, tạo tiền đề để ngành Thuế triển khai thắng lợi toàn bộ Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Các mục tiêu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 gồm: 

Thứ nhất, đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững của quy mô nguồn lực, có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho ngân sách nhà nước, góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp quản lý rủi ro, đồng thời dựa trên nền tảng thuế điện tử và ba trụ cột cơ bản (thể chế quản lý thuế đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập). Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới. Công nghệ thông tin hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế số.

“Chiến lược giai đoạn này phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp…” – ông Tuấn cho biết.

Chiến lược cũng nhằm tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.

Trước đó, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, sau 10 năm triển khai Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước.

Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính. Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.
 
 

[CHIA SẺ] 12 nguyên lý toán học có ích trong đầu tư

Nói đến đầu tư, thực ra nó rất giống và có liên quan mật thiết tới một môn học của chúng ta đó là Toán học. Theo quan sát, những người có tố chất toán học thường sẽ giỏi hơn trong việc đầu tư và quản lý tài chính. Bởi họ luôn biết cách tính toán, tận dụng từng đồng tiền để kiếm tiền.

Do vậy, việc hiểu và vận dụng thành thạo một số nguyên lý toán học cần thiết rất hữu ích. Ít nhất nó có thể giúp bạn không tính sai lãi suất khi gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Mỗi một khoản đầu tư, chúng ta đều phải tính toán một cách kỹ lưỡng về thời hạn, gốc lãi sau khi hết hạn là bao nhiêu? Đầu tư thêm bao lâu nữa sau khi hết hạn sẽ có lợi nhất…

1. Tý suất hoàn vốn 

Ví dụ bạn có 100 triệu. Tài sản sau khi có được lợi nhuận 100% là 200 triệu. Nếu tiếp sau đó thua lỗ 50%. Tài sản sẽ trở về mức 100 triệu. Dĩ nhiên thua lỗ 50% dễ dàng hơn rất nhiều so với lợi nhuận 100%.

2, Giới hạn tăng và giới hạn giảm 

Ví dụ bạn có 100 triệu, ngày thứ nhất tăng giá, tài sản của bạn đạt mức 110 triệu. Ngày thứ hai sụt giá, tài sản của bạn chỉ còn 99 triệu. Ngược lại nếu ngày thứ nhất giảm, ngày thứ hai tăng, tài sản của bạn vẫn là 99 triệu.

3, Biến động 

Nếu bạn có 100 triệu. Năm thứ nhất kiếm được 40%. Năm thứ hai thua lỗ 20%. Năm thứ 3 lãi 40%. Năm thứ 4 thua lỗ 20%. Năm thứ 5 lãi 40%, năm thứ 6 thua lỗ 20%. Tài sản còn lại là 140.5 triệu. Tỷ suất hoàn vốn năm trong vòng 6 năm chỉ là 5.83%.

4, Mỗi ngày

Nếu bạn có 100 triệu. Mỗi ngày không cần phải tăng giảm này nọ. Chỉ cần kiếm 1% lợi nhuận rồi rút lui. Vậy nếu mỗi năm có 250 lượt giao dịch, tài sản của bạn sẽ đạt mức khoảng 1,203,215,000. Sau 2 năm bạn có thể ngồi và hưởng thụ số tiền khoảng 14,477,277,000.

5, Mỗi năm 200%

Nếu bạn có 100 triệu đồng. Nếu tỷ suất lợi nhuận trong vòng 5 năm liên tục là 200%. Vậy sau năm bạn sẽ bạn sẽ có khoảng 24,300,000,000 tài sản cá nhân. Dĩ nhiên lợi nhuận với mức cao như vậy là điều rất khó để duy trì.

6, 10 năm 10 lần

Nếu bạn có 100 triệu. Hy vọng 10 năm sau sẽ có 1 tỷ. Sau 20 năm là 10 tỷ, sau 30 năm là 100 tỷ. Vậy tỷ suất lợi nhuận năm của bạn sẽ phải là 25.89%.

7. Cover hàng

Ví dụ bạn mua 100 triệu cổ phiếu khi giá của nó là 10 nghìn. Nếu giảm xuống 5 nghìn mua thêm 100 triệu. Chi phí tồn kho sẽ giảm xuống 66,700 chứ không phải là 77,500 như trong tưởng tượng của bạn.

8. Chi phí tồn kho

Nếu bạn có 100 triệu, đầu tư một loại cổ phiếu nào đó với lợi nhuận 10%. Khi bạn đưa ra quyết định bán, hãy thử giữ lại 10 triệu cổ phiếu theo giá thị trường. Vậy thì chi phí tồn kho của bạn sẽ = 0. Bạn sẽ hoàn toàn có thể lưu trữ nó mà không có bất cứ áp lực gì.

Nếu bạn nhìn thấy công ty có triển vọng phát triển tốt. Bạn có thể giữ lại khoảng 20 triệu cổ phiếu. Bạn sẽ phát hiện ra rằng tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng từ 10% lên tới 100%. Nhưng đừng vội đắc ý, bởi nếu khi đó cổ phiếu giảm vượt quá 50%. Bạn có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ.

9, Tổ hợp tài sản

Có tài sản A không có rủi ro (mỗi năm 5%) và tài sản B có rủi ro (mỗi năm 20-40%). Nếu bạn có 100 triệu, bạn có thể đầu tư 80 triệu vào tài sản không có rủi ro A và 20 triệu vào tài sản có rủi ro B.
Lợi nhuận toàn năm ở mức thấp nhất có thể là 0. Nhưng lợi nhuận cao nhất có thể sẽ là 12%. Đây chính là mô hình kỹ thuật CPPI kiểu mẫu được áp dụng vào trong quỹ bảo toàn vốn.

10, Bán khống

Bạn có 100 triệu, bán khống một loại cổ phiếu nào đó. Có thể bạn sẽ có mức tỷ suất lợi nhuận cao nhất là 100%. Nhưng tiền đề là số cổ phiếu bán khống phải hết sạch.

Hơn nữa nếu làm nhiều, tỷ suất lợi nhuận sẽ không có giới hạn trên. Do vậy đừng liên tục bán khống, nếu bạn không tin xã hội nhân loại luôn tiến bộ đi lên.

11, Lợi nhuận Casinno

Sau khi phân tích 1000 số liệu tại casinno ở Ma Cao. Phát hiện tỷ lệ thắng bại là 53% và 47%. Trong đó, lợi nhuận bình quân của những người thắng cuộc có được là 34%. Còn những người thua cuộc thua lỗ khoảng 72%.
Casino không cần phải can thiệp vào kết quả thắng bại. Đảm bảo công bằng trong việc thắng lợi liên tục dựa vào điểm yếu tính cách con người. Thị trường cổ phiếu cũng như vậy.

12, Tương lai của tiền tệ 

Ví dụ bạn gửi 10 triệu tiền tiết kiệm vào ngân hàng cho cháu của mình. Lãi suất năm là 5%, vậy thì sau 20 năm số tiền mà bạn có sẽ là khoảng 173 tỷ. Nếu tốc độ tăng trưởng phát hành tiền tệ quốc gia duy trì ở mức trên 10%.
Giả sử hiện nay số dư tiền gửi tiết kiệm M2 là 107 nghìn tỷ, tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 14%. 100 năm sau tổng lượng tiền tệ sẽ đột phá đạt mức 1,474,522 tỷ.

Tính trên mức dân số 2 tỷ người, tiền tiết kiệm bình quân mỗi người sẽ là 737 triệu. (Chưa kể bất động sản, trái phiếu, đồ cổ và các loại tài sản khác).

Điều này hiển nhiên sẽ không thể xảy ra. Tốc độ tăng trưởng phát hành tiền tệ sẽ dần giảm xuống tới mức thấp hơn 2%.

Tỷ suất lợi nhuận mỗi năm là 20%. Đến khi ấy, con người chúng ta mới thực sự ý thức được mọi việc thực sự không dễ chút nào.

Tóm lại, đầu tư thành công cần phải có đủ 3 điều kiện: một là phòng ngừa rủi ro, giữ tiền gốc. Hai là giảm thiểu biến động, ổn định doanh thu. Ba là đầu tư dài hạn, tăng trưởng lợi nhuận kép.
Bốn lời khuyên để đầu tư thành công: một là tổ hợp tài sản một cách hợp lý. Hai là không nên thử bán khống một cách dễ dàng. Ba là cố gắng khắc phục nỗi sợ và lòng tham của con người. Bốn là càng là nguy cơ thì càng đáng để nắm giữ.

Quản lý rủi ro: Khuyến khích người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật

Luật Quản lý thuế giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định tiêu chí đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, phân loại mức độ rủi ro và việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

Theo đó, một trong những giải pháp được Bộ Tài chính sử dụng là tăng cường áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế và quản lý thuế.

Quy định bao quát, toàn diện hơn

Căn cứ vào quy định của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Nghị định 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo thông tư quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế, lấy ý kiến góp ý rộng rãi.

Bộ Tài chính cho biết, việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đó. Tuy nhiên, quá trình triển khai áp dụng thời gian qua cho thấy một số nội dung cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

Cũng theo Bộ Tài chính, nội dung dự thảo thông tư này quy định một cách bao quát, toàn diện; việc áp dụng quản lý rủi ro xuyên suốt trong các chức năng, nghiệp vụ quản lý thuế từ đăng ký thuế, khai thuế, nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, hoàn thuế, kiểm tra, thanh tra thuế, quản lý hóa đơn, chứng từ và các chức năng, nghiệp vụ quản lý thuế khác.

Đặc biệt, dự thảo thông tư quy định công khai các tiêu chí đánh giá tuân thủ pháp luật thuế và mức độ rủi ro người nộp thuế (NNT), nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong đánh giá NNT, đồng thời cũng để NNT tự so chiếu các tiêu chí đánh giá để hoàn thiện, từ đó nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT.

Theo đó, dự thảo thông tư của Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế có trách nhiệm ban hành các chỉ số tiêu chí, giúp cho cơ quan thuế các cấp triển khai công tác quản lý rủi ro được linh hoạt, chủ động trong việc thay đổi các chỉ số tiêu chí cho phù hợp với thực tế quản lý thuế trong từng thời kỳ; góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính không cần thiết.

Việc kiểm soát, giám sát trọng điểm đối với NNT có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, dự thảo thông tư quy định NNT có một trong các dấu hiệu sau: 

Thứ nhất, NNT thực hiện các giao dịch qua ngân hàng có dấu hiệu đáng ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền có liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế.

Thứ hai, NNT hoặc người đại diện hợp pháp của NNT bị khởi tố về các hành vi vi phạm về thuế, hóa đơn, chứng từ.

Thứ ba, NNT có dấu hiệu rủi ro cao về thuế thuộc chuyên đề trọng điểm hoặc qua thu thập thông tin từ công tác quản lý của cơ quan thuế cần giám sát quản lý thuế.

Thứ tư, NNT được lựa chọn từ danh sách NNT thuộc mức không tuân thủ pháp luật thuế quy định tại điều 10 thông tư này, danh sách NNT thuộc mức rủi ro rất cao, rủi ro cao theo quy định tại điều 11 thông tư này và NNT không giải trình, bổ sung thông tin hoặc có giải trình, bổ sung thông tin nhưng không đầy đủ theo yêu cầu và thời hạn tại thông báo bằng văn bản của cơ quan quản lý thuế. 

Dự thảo thông tư giao, cơ quan thuế các cấp có trách nhiệm theo dõi, giám sát, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế phù hợp với từng trường hợp. Riêng Tổng cục Thuế, chịu trách nhiệm quy định cụ thể việc thu thập, phân tích thông tin, xác định trọng điểm giám sát, biện pháp giám sát phù hợp với quy định của pháp luật trong từng thời kỳ.

Nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Để nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT, dự thảo thông tư dành riêng chương IV gồm 14 điều quy định chi tiết việc nâng cao mức tuân thủ của NNT và áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Theo đó, dự thảo thông tư quy định, căn cứ kết quả đánh giá tuân thủ pháp luật thuế được quy định, cơ quan thuế thực hiện phân tích bản chất hành vi, quy mô của mỗi mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT, xây dựng kế hoạch nâng cao tuân thủ pháp luật thuế với các biện pháp xử lý phù hợp với mỗi vấn đề tuân thủ.

Đối với việc áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra, căn cứ danh sách NNT phân loại theo các mức rủi ro, cơ quan thuế lựa chọn các trường hợp thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT. Trường hợp được lựa chọn qua phân tích, đánh giá phân loại tuân thủ và xếp hạng mức độ rủi ro không dưới 90% số lượng trường hợp được thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm. Trường hợp được lựa chọn ngẫu nhiên không quá 10% số lượng trường hợp được thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm.

Việc lựa chọn NNT có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế phải tránh trùng lặp, chồng chéo theo quy định tại Luật Quản lý thuế, Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành. Định kỳ, cơ quan thuế rà soát các trường hợp NNT không tuân thủ, có dấu hiệu rủi ro cao để lựa chọn bổ sung vào kỳ kế hoạch thanh tra kiểm tra điều chỉnh hàng năm hoặc thanh tra đột xuất.
 

Hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 19/2021/TT-BTC hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 03-05-2021.

Chứng từ điện tử trong giao dịch thuế điện tử

Theo Thông tư số 19/2021/TT-BTC ngày 18-03-2021 của Bộ Tài chính, chứng từ điện tử là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương thức điện tử khi người nộp thuế, cơ quan thuế, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan thực hiện giao dịch thuế điện tử.

Chứng từ nộp ngân sách nhà nước (NSNN) điện tử bao gồm: Chứng từ nộp NSNN theo quy định tại Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20-01-2020 về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước dưới dạng điện tử; các thông báo, quyết định, văn bản khác của cơ quan thuế dưới dạng điện tử.

Trường hợp nộp thuế qua hình thức nộp thuế điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thì chứng từ nộp NSNN là chứng từ giao dịch của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải đảm bảo đủ các thông tin trên mẫu chứng từ nộp NSNN.

Các chứng từ điện tử nêu trên phải được ký điện tử theo quy định. Trường hợp hồ sơ thuế điện tử có các tài liệu kèm theo ở dạng chứng từ giấy phải được chuyển đổi sang dạng điện tử theo quy định tại Luật Giao dịch điện tử, Nghị định số 165/2018/NĐ-CP ngày 24-12-2018 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính.

05 phương thức giao dịch thuế điện tử

Có nhiều phương thức giao dịch thuế điện tử để người nộp thuế lựa chọn như: Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính đã được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác đã được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN được Tổng cục Thuế chấp nhận kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thực hiện nộp thuế điện tử.

Bộ Tài chính quy định, người nộp thuế có thể thực hiện các giao dịch thuế điện tử 24/7, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày tết. Ngược lại, thời gian cơ quan Thuế gửi thông báo, quyết định, văn bản cho người nộp thuế được xác định là trong ngày nếu hồ sơ được ký gửi thành công trong cả 24 giờ mỗi ngày.

Việc tổ chức thực hiện giao dịch điện tử theo quy định tại Thông tư này được thực hiện theo lộ trình cải cách thủ tục hành chính của cơ quan thuế.

Theo đó, việc triển khai truyền, nhận, hạch toán thông tin thu, nộp NSNN theo “mã tham chiếu” được thực hiện khi Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước, ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản, Ngân hàng/tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có kết nối với Cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế hoàn thành việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng theo quy định, đảm bảo đáp ứng yêu cầu hạch toán thu NSNN, trao đổi, đối chiếu và hạch toán thu NSNN của Kho bạc nhà nước, cơ quan thuế, ngân hàng/tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

Trong thời gian Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước, ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản, Ngân hàng tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có kết nối với Cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế chưa triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng thì việc truyền, nhận, hạch toán thông tin thu, nộp NSNN vẫn thực hiện truyền đầy đủ các thông tin trực tiếp từ ngân hàng tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đến ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản và tới Kho bạc Nhà nước để đảm bảo đáp ứng được yêu cầu hạch toán thu NSNN của Kho bạc Nhà nước .

Thông tư số 19/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 03-05-2021 và thay thế Thông tư số 110/2015/TT-BTC và Thông tư số 66/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 110/2015/TT-BTC về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.

Theo đó, Hồ sơ thuế điện tử bao gồm: hồ sơ đăng ký thuế; hồ sơ khai thuế; xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế; tra soát thông tin nộp thuế; thủ tục bù trừ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa; hồ sơ hoàn thuế; hồ sơ miễn giảm thuế; miễn tiền chậm nộp; không tính tiền chậm nộp; hồ sơ khoanh tiền thuê nợ, hồ sơ xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt, gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền thuế nợ và các hồ sơ, văn bản khác về thuế dưới dạng điện tử được quy định tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn Luật Quản lý thuế.

Doanh nghiệp bảo hiểm được phép cấp giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử

Từ ngày 01-03-2021, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử có giá trị pháp lý như bản giấy nếu tuân thủ đầy đủ các quy định. Tuy nhiên, việc cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử phải đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về giao địch điện tử và pháp luật có liên quan.

Nghị định số 03/2021/NĐ-CP về bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới chính thức có hiệu lực từ ngày 01-03-2021. Theo quy định của Nghị định, doanh nghiệp bảo hiểm được phép cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới điện tử.

Quy định mới được cho là đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm, đặc biệt là trong thời đại công nghệ 4.0 hiện nay.

Theo Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), tại Điều 6 Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định rõ, Giấy chứng nhận bảo hiểm là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Theo quy định tại Khoản 4 Điều 6 Nghị định, trường hợp cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử, doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các quy định của Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành; tuân thủ các quy định và đảm bảo đầy đủ các nội dung theo quy định của Nghị đinh.

Tại Điều 34 Luật Giao dịch điện tử đã thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử: "Giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử không thể phủ nhận chỉ vì hợp đồng đó được thể hiện dưới dạng thông điệp dữ liệu”. 

Như vậy, Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử được doanh nghiệp bảo hiểm cấp tuân thủ đầy đủ các quy định tại Nghị định số 03/2021/NĐ-CP quy định pháp luật về giao dịch điện tử và pháp luật có liên quan hoàn toàn có giá trị pháp lý như Giấy chứng nhận bảo hiểm bản giấy.

Bên cạnh đó, Nghị định số 03/2021/NĐ-CP còn quy định những nội dung liên quan đến việc thực hiện chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bao gồm cho phép doanh nghiệp bảo hiểm được chủ động thiết kế Giấy chứng nhận bảo hiểm, nhưng phải đảm bảo các nội dung chính tại Giấy chứng nhận bảo hiểm (quy định tại Khoản 3 Điều 6, Nghị định số 03/2021/NĐ-CP).

Đồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm cũng được chủ động trong việc thực hiện cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm bản giấy hoặc bản điện tử. Tuy nhiên, việc cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm điện tử phải đảm bảo tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về giao địch điện tử và pháp luật có liên quan.

Nhằm tạo thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát thực hiện bảo hiểm bắt buộc, Nghị định quy định Giấy chứng nhận bảo hiểm phải có mã số, mã vạch; đồng thời, doanh nghiệp bảo hiểm phải tích hợp chức năng tra cứu Giấy chứng nhận bảo hiểm trên cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo sự kết nối với các cơ quan chức năng hữu quan để đảm bảo sự phối hợp, giám sát trong quá trình triển khai thực hiện.

Theo các doanh nghiệp bảo hiểm, trong bối cảnh kinh tế khó khăn do đại dịch Covid-19 việc tập trung phát triển và ứng dụng công nghệ số hóa vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm giúp các doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, chất lượng dịch vụ, năng lực cạnh tranh…
 

Dòng vốn FDI vào Việt Nam hồi phục mạnh mẽ trong tháng 2/2021

Báo cáo cập nhật Tình hình Kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 3/2021 của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hồi phục mạnh mẽ vào tháng 2/2021 sau hai tháng chững lại.

Theo đó, vào tháng 2/2021, Việt Nam đã thu hút được 3,4 tỷ USD vốn FDI, cao hơn 70,4% so với tháng 01/2021 (khoảng 2,02 tỷ USD) và tăng gấp ba lần giá trị vốn FDI so với cùng kỳ năm 2020.

Như vậy, sau khi giảm nhẹ vào tháng 1/2021, sự gia tăng về vốn FDI vào Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19, được WB lý giải là do được thúc đẩy bởi hoạt động đăng ký cấp mới (tăng 265,7% so với cùng kỳ năm trước) và tăng vốn (tăng 273,0% so với cùng kỳ năm trước). 

Trong đó, xuất hiện các dự án lớn như: dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II trị giá 1,31 tỷ USD được cấp phép tại Cần Thơ hay dự án Nhà máy sản xuất mô-đun tấm nền OLED trị giá 750 triệu USD tại Hải Phòng…  Những dự án “khủng” được cấp chứng nhận đầu tư trong tháng 2/2021 đã góp phần quan trọng để xoay chuyển tình hình thu hút đầu tư nước ngoài trong 2 tháng đầu năm nay.

WB cũng nhận định, việc nhanh chóng kiểm soát đợt bùng phát dịch Covid-19 mới cuối tháng 1 vừa qua đã giúp duy trì triển vọng phục hồi kinh tế tích cực của Việt Nam trong năm 2021. WB cũng khuyến cáo, Việt Nam cần đặc biệt chú ý đến việc triển khai tiêm vắc-xin phòng Covid-19 vì hoạt động này sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), hiện nay tại nhiều địa phương như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương… cũng đang sẵn sàng chờ đợi các dự án mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã khiến các địa phương liên tục đề xuất việc mở rộng các khu công nghiệp mới trong năm ngoái và giờ là lúc các đề xuất đó trở thành hiện thực. Trong hai tháng đầu năm 2021, Chính phủ liên tục chấp thuận chủ trương cho các địa phương xây mới hoặc mở rộng các khu công nghiệp cũ.

Trong đó, Bắc Giang đang là một trong những địa phương nhận được nhiều sự ủng hộ nhất. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ vừa đồng ý bổ sung Khu công nghiệp Yên Lư (diện tích 377 ha), Khu công nghiệp Yên Sơn – Bắc Lũng (300 ha), Khu công nghiệp Tân Hưng (105,3 ha) vào quy hoạch. Đồng thời, mở rộng Khu công nghiệp Quang Châu thêm 90 ha, Khu công nghiệp Hòa Phú tăng thêm 85 ha, Khu công nghiệp Việt Hàn thêm 148 ha…

Hải Dương cũng là địa phương vừa được đồng ý về chủ trương cho đầu tư Khu công nghiệp An Phát 1. Ngoài ra, tỉnh Bình Dương, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Đồng Nai cũng đã lần lượt được phép xây dựng thêm các khu công nghiệp mới để sẵn sàng đón dòng vốn đầu tư bùng nổ.

Qua các dự án lớn đã và sắp được các nhà đầu tư nước ngoài "rót vốn" đầu tư vào Việt Nam cho thấy, Việt Nam luôn là một trong những điểm đến được ưa chuộng đối với các nhà đầu tư quốc tế và cũng là một trong những nước được hưởng lợi từ làn sóng chuyển dịch chuỗi cung ứng trước diễn biến căng thẳng thương mại Mỹ – Trung.

Nguồn:tapchitaichinh