Giám Đốc Tài Chính CFO

Khái niệm giám đốc tài chính CFO (Chief Finance Officer) ở Việt Nam có thể hơi xa lạ với hầu hết mọi người. Thông thường, tại các công ty nhỏ và vừa thì kế toán sẽ kiêm luôn thủ quỷ và quản lý tiền. Bên cạnh đó thì giám đốc điều hành CEO là người ra quyết định cho dòng tiền trong doanh nghiệp. Có thể nói ở Việt Nam, hầu hết đều không có CFO mà CEO và kế toán sẽ phân chia công việc của vị trí này.

Giám đốc tài chính là gì?

Một giám đốc tài chính (CFO) là giám đốc điều hành cấp cao chịu trách nhiệm quản lý các hành động tài chính của một công ty. Nhiệm vụ của CFO bao gồm theo dõi dòng tiền và lập kế hoạch cũng như phân tích điểm mạnh và điểm yếu tài chính của công ty và đề xuất các hành động khắc phục.

CFO tương tự như thủ quỹ hoặc kiểm soát viên vì họ chịu trách nhiệm quản lý các bộ phận tài chính và kế toán và đảm bảo rằng các báo cáo tài chính của công ty là chính xác và được hoàn thành kịp thời. Nhiều người trong số họ có chứng chỉ CMA (Certified Management Accountant)

  • Giám đốc tài chính, hay CFO, của một công ty là người kiểm soát tài chính cấp cao nhất, xử lý mọi thứ liên quan đến dòng tiền và kế hoạch tài chính.
  • Mặc dù vai trò của CFO có thể bổ ích, nhưng có những cân nhắc về mặt pháp lý phải được tuân thủ nghiêm ngặt.
  • CFO giám sát các vấn đề về thuế cho các công ty của họ.
  • Thông thường, CFO là vị trí cao thứ ba trong một công ty, đóng vai trò quan trọng trong các sáng kiến ​​chiến lược của công ty.

Những gì mà CFO phải làm

CFO báo cáo cho giám đốc điều hành (CEO) nhưng có đầu vào quan trọng trong các khoản đầu tư của công ty, cơ cấu vốn và cách công ty quản lý thu nhập và chi phí. CFO làm việc với các nhà quản lý cấp cao khác và đóng vai trò quan trọng trong thành công chung của công ty, đặc biệt là về lâu dài.

Ví dụ: khi bộ phận tiếp thị muốn khởi chạy một chiến dịch mới, CFO có thể giúp đảm bảo chiến dịch khả thi hoặc cung cấp đầu vào cho số tiền có sẵn cho chiến dịch. 

CFO là người quản lý tài chính cao nhất trong một công ty.

CFO có thể hỗ trợ Giám đốc điều hành dự báo, phân tích lợi ích chi phí và nhận tài trợ cho các sáng kiến ​​khác nhau. Trong ngành tài chính, CFO là vị trí xếp hạng cao nhất và trong các ngành khác, nó thường là vị trí cao thứ ba trong một công ty. Một giám đốc tài chính có thể trở thành một CEO, giám đốc điều hành hoặc chủ tịch của một công ty.

Lợi ích của việc trở thành một CFO

Vai trò CFO đã xuất hiện từ việc tập trung vào việc tuân thủ và kiểm soát chất lượng đến lập kế hoạch kinh doanh và thay đổi quy trình, và họ là đối tác chiến lược của CEO. CFO đóng một vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến chiến lược của công ty.

Hoa Kỳ là một trung tâm tài chính quốc tế và tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng trưởng việc làm trong ngành tài chính Hoa Kỳ. Các công ty tiếp tục tăng lợi nhuận dẫn đến nhu cầu về CFO. Các cục thống kê lao động dự đoán triển vọng việc làm cho các nhà quản lý tài chính đối với tăng trưởng 7% trong giai đoạn 2014 và 2024.

Cân nhắc đặc biệt

CFO phải báo cáo thông tin chính xác vì nhiều quyết định dựa trên dữ liệu họ cung cấp. CFO chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động tài chính của một công ty và tuân thủ các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP) được thành lập bởi ủy ban chứng khóan và giao dịch (SEC) và các tổ chức quản lý khác.

Các giám đốc tài chính cũng phải tuân thủ các quy định như Đạo luật Sarbanes-Oxley bao gồm các điều khoản như phòng chống gian lận và tiết lộ thông tin tài chính.

Chính quyền địa phương, tiểu bang và liên bang thuê CFO để giám sát các vấn đề về thuế. Thông thường, CFO là liên lạc giữa người dân địa phương và các quan chức được bầu về kế toán và các vấn đề chi tiêu khác. CFO đặt ra chính sách tài chính và chịu trách nhiệm quản lý các quỹ của chính phủ.

Quản Trị Tài Chính Doanh Nghiệp Hiệu Quả

Hệ thống tài chính trong doanh nghiệp được ví như hệ thống tuần hoàn máu trong cơ thể nuôi tất cả các bộ phận và toàn thể. Tài chính có thể nằm dưới dạng tiền, vật tư, nguyên liệu, tài sản phát sinh lúc hình thành nguồn vốn hoặc trong quá trình hoạt động như các khoản phải thu, phải trả.

Quản lý hệ thống tài chính sao cho có lợi nhuận đều quy về bài toán tài chính giản dị.

Bài Toán: Thu – Chi > 0

Tất cả bài toán tài chính đều quy về các dạng: doanh thu – chi phí, nguồn thu – vốn đầu tư, lợi nhuận = doanh thu – chi phí, thu nhập ròng = thực thu – thực chi…

Các khoản chi phân bổ cho các lĩnh vực là (1) nhân lực, công nghệ, tổ chức, quy trình; và (2) khách hàng (và đối tác), tài chính.

Trong khi đó, các khoản thu lại chỉ đến từ khách hàng và lĩnh vực tài chính mà thôi.

Khi tái cấu trúc tài chính doanh nghiệp, ta đừng bỏ sót khoản mục chi hoặc thu nào và mức độ ưu tiên giải quyết để tăng thu, giảm chi đến hết mức nhằm tối đa hóa lợi nhuận doanh nghiệp.

Những vấn đề thường gặp trong việc giải bài toán thu chi

  • Quản lý nguồn thu, nguồn chi căn cứ trên ước lượng, dự đoán, thiếu phân tích nên không thấy hết nguồn thu, không cắt giảm được chi phí.
  • Kiểm soát công nợ chưa thường xuyên, chặt chẽ, chưa có chính sách xử lý nợ rốt ráo dễ dẫn đến thiếu tiền.
  • Kiểm soát không chặt chẽ vật tư hàng hóa, xuất nhập tồn kho, trên đường đi, hàng gửi làm lãng phí vốn.
  • Không có kế hoạch tài chính, thậm chí không kiểm soát được dòng tiền, kế hoạch thu trả nợ.
  • Công cụ kế toán kết hợp với các nguyên tắc thu chi, kiểm định nội bộ có thể giải quyết được các vấn đề này.

Nguyên Tắc Thu Chi

Nguyên tắc thu chi cần đảm bảo vấn đề:

  • Có kế hoạch (nhất là kế hoạch dòng tiền)
  • Cân đối thu chi
  • Chi đầu tư và ROI (thu lại vốn đầu tư)

“Tăng thu, giảm chi” nghe có vẻ đơn giản nhưng không có chi (đầu tư) làm sao có nguồn thu? Cần tách bạch giữa đầu tư (thu chi của dự án đầu tư) và các khoản chi cho hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp mới đánh giá được hiệu quả đầu tư cũng như lợi nhuận của doanh nghiệp.

Nhiều khi mù quáng cắt hết khoản đầu tư cho phát triển, chỉ nhằm vào những hoạt động đẻ ra tiền ngay với lý do giảm chi để cắt lỗ. Mà không đánh giá kỹ kết quả đầu tư sẽ dẫn đến việc doanh nghiệp không còn sản phẩm sáng tạo, hoặc không có sản phẩm mới có tính cạnh tranh. Một nguyên tắc cố thủ khác: “Có thu mới có chi – liệu cơm gắp mắm” với lý do an toàn tài chính nhưng lúc muốn phát triển cũng dẫn đến bài toán cân đối đầu tư như trên.

Kế Hoạch Tài Chính

Lập kế hoạch tài chính là dùng một số giả định như dự báo doanh thu, chi phí… và các báo cáo tài chính (dòng tiền, bảng cân đối, thu nhập…) vài năm trước đó để đưa ra các báo cáo tài chính trong tương lai nhằm vào các mục tiêu và ưu tiên của doanh nghiệp. Nhưng tình hình thực tế thay đổi rất nhanh nên để có phản ứng linh hoạt hơn ta có thể lập mô hình tài chính.

Mô hình tài chính (financial model) là mô hình cho thấy tình trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp. Nó bao gồm quá khứ, hiện tại và dự đoán nhiều năm liên tục cho các bản báo cáo tài chính (dòng tiền, bảng cân đối, thu nhập…). Quá trình lập mô hình tài chính như sau:

Báo cáo tài chính của công ty trong quá khứ (doanh nghiệp khởi nghiệp không có).

Các giả định bao gồm ý định của nhà đầu tư, thông tin về thị trường, tình hình cạnh tranh. Ccác báo cáo về ngành kinh doanh, lợi thế cạnh tranh, mô hình kinh doanh, từ đó đưa ra hết các giả định về thu và chi (giá thành, giá bán…).

  • Lập báo cáo dự đoán “kết quả hoạt động kinh doanh, bảng cân đối kế toán và báo cáo lưu chuyển tiền tệ”.Định giá doanh nghiệp bằng phương pháp chiết khấu dòng tiền.
  • Định giá doanh nghiệp bằng phương pháp so sánh. Lựa chọn các doanh nghiệp niêm yết hoạt động trong cùng ngành nghề để so sánh với doanh nghiệp cần định giá, thu thập và điều chỉnh các dữ liệu và chỉ số tài chính trước khi áp dụng định giá bằng phương pháp số nhân.
  • Tổng hợp và liên kết hai phương pháp định giá để ra giá trị cuối cùng của doanh nghiệp, thể hiện bằng đồ thị định giá.
  • Lập báo cáo dự đoán “kết quả hoạt động kinh doanh, bảng cân đối kế toán và báo cáo lưu chuyển tiền tệ”.
  • Định giá doanh nghiệp bằng phương pháp chiết khấu dòng tiền.
  • Định giá doanh nghiệp bằng phương pháp so sánh. Lựa chọn các doanh nghiệp niêm yết hoạt động trong cùng ngành nghề để so sánh với doanh nghiệp cần định giá, thu thập và điều chỉnh các dữ liệu và chỉ số tài chính trước khi áp dụng định giá bằng phương pháp số nhân.
  • Tổng hợp và liên kết hai phương pháp định giá để ra giá trị cuối cùng của doanh nghiệp Thể hiện bằng đồ thị định giá.

Phương Tiện Quản Trị Tài Chính

Hiện có nhiều mức quản trị tài chính:

Mức thô sơ: Mục đích là để lập hóa đơn tài chính hoặc báo cáo thuế.
Mức căn bản: Đưa ra tất cả các báo cáo tài chính và quản trị theo yêu cầu kiểm toán đòi hỏi hoặc nhu cầu quản lý căn bản của doanh nghiệp liên quan đến tiền hàng.

Mức nâng cao: Ra được các báo cáo phân tích tài chính và mô hình tài chính trên quy mô tổng hợp nhiều chi nhánh và truy cập mọi lúc, mọi nơi trên thiết bị di động (điện toán đám mây/ di động). Có khả năng xử lý nhanh chóng khối lượng dữ liệu lớn và bảo vệ an toàn dữ liệu gần như tuyệt đối.

Dùng công cụ Excel có thể đáp ứng linh hoạt các mức căn bản và thô sơ nhưng sẽ mất nhiều thời gian, công sức hơn là dùng một phần mềm kế toán hoặc một công cụ chuyên phân tích dữ liệu. Hiện nay có rất nhiều phần mềm kế toán hiện đại, mạnh mẽ, linh hoạt, có thể tích hợp trong hệ thống ERP và có thể hoạt động trơn tru trên Internet như của Microsoft, Lạc Việt, Workday… Tốt nhất là nên chọn một hệ thống mà mỗi vai trò liên quan có thể xử lý dữ liệu tài chính theo thời gian thực trên thiết bị di động tại bất cứ nơi nào có Internet.

Có Nên Tăng Quyền Cho Cổ Đông

Đề xuất giảm tỷ lệ cổ phần có quyền tiếp cận thông tin nội bộ từ 10% xuống 1% khiến doanh nghiệp lo “lộ bí mật”, trong khi các chuyên gia lại cho rằng cổ đông được quyền tiếp cận thông tin sẽ nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp.

Tại Hội thảo “Góp ý dự luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) ngày 15/10, ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), cho biết môi trường đầu tư của Việt Nam đã có những chuyển biến thuận lợi, số lượng doanh nghiệp (DN) thành lập mới trong 3 năm gần đây tăng khoảng 65-70%, đạt mức cao nhất 20 năm qua.

Đến nay, cả nước có khoảng 750.000 DN đang hoạt động. Thu hút đầu tư nước ngoài cũng đạt được kết quả đáng khích lệ, giai đoạn 2016-2018, số lượng dự án đăng ký và vốn đầu tư giải ngân tăng nhanh. Riêng năm 2018, vốn giải ngân đạt gần 20 tỷ USD.

Lo ngại lộ bí mật kinh doanh

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật DN đề xuất sửa đổi khoản 2, điều 114 Luật DN theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% xuống 1%.

Cùng với đó là quy định cổ đông sẽ có quyền yêu cầu xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát; yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường; yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết…

Đồng thời, Dự thảo Luật cũng bãi bỏ điều kiện sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng.

Đề xuất này đã làm “nóng” hội thảo khi có nhiều quan điểm trái chiều giữa các chuyên gia và DN.

Chia sẻ quan điểm, ông Phan Lê Hoàng, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Thái Bình Dương (Pacific Corpration), cho rằng việc bỏ điều kiện sở hữu cổ phần trong thời hạn liên tục ít nhất 6 tháng là phù hợp, vì đã là cổ đông của công ty thì đương nhiên cổ đông phải được thực hiện ngay các quyền của mình mà không phân biệt cổ đông cũ hay cổ đông mới.

Tuy nhiên, ông Hoàng lại khẳng định quy định về giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% xuống còn 1% là không phù hợp, không đảm bảo được môi trường cạnh tranh cho DN.

Theo ông Hoàng, bảo vệ quyền lợi cho cổ đông nhỏ là việc làm đúng, nhưng để ổn định công ty thì vẫn cần phải có một tỷ lệ nhất định để biểu quyết theo số đông, đảm bảo cho quyền lợi cũng như trách nhiệm cổ đông lớn.

Vì thế, đại diện Pacific Corpration đề nghị giữ nguyên tỷ lệ sở hữu 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên của cổ đông hoặc nhóm cổ đông như quy định tại Khoản 2 Điều 114 Luật DN hiện hành.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Thanh Việt, Tổng giám đốc Intracom, bày tỏ sự lo ngại về vấn đề bảo vệ bí mật kinh doanh.

“Trong quản trị DN, việc quản lý chuyên nghiệp và bảo vệ bí mật kinh doanh rất quan trọng. Nếu không suy nghĩ cẩn thận thì đối thủ cạnh tranh sẽ mua 1% và gây khó dễ cho DN”, ông Việt nêu rõ.

Không ai mạo hiểm để quấy phá DN

Dưới góc nhìn của các chuyên gia, đa số ủng hộ đề xuất này và cho rằng quy định như vậy sẽ bắt buộc các DN phải nâng cao chất lượng quản trị DN, đạt chuẩn mực của OECD hay Basel, bởi nếu không thì sẽ khó thu hút được nhà đầu tư.

Theo ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), quản trị công ty là một trong những nội dung cần đặc biệt chú ý trong lần sửa đổi Luật này. Trong đó, bảo vệ cổ đông là một nội dung quan trọng nhất của khung pháp luật về quản trị công ty. Quy định về bảo vệ cổ đông tốt sẽ đóng góp quan trọng làm cho DN trở thành một công cụ kinh doanh an toàn và thông qua đó sẽ thúc đẩy và huy động vốn đầu tư.

Do đó, ông Hiếu cho rằng việc sửa đổi như vậy sẽ giúp mở rộng quyền tiếp cận thông tin của cổ đông về tình hình hoạt động của công ty, tạo thuận lợi hơn cho cổ đông thực hiện quyền của mình.

“Ở Nhật Bản, chỉ cần 1 cổ phiếu là có quyền yêu cầu cung cấp thông tin DN, ở Hàn Quốc áp dụng tỷ lệ 3%. Do đó, chúng tôi thấy mức 1% là hợp lý. Chúng tôi đã tiến hành khảo sát với hơn 300 DN trên sàn HoSE và kết luận rằng 1% cổ phần của một DN niêm yết là rất lớn, không ai chịu mạo hiểm quyền lợi của mình liên quan đến 1% cổ phần để quấy phá DN cả”, ông Hiếu nêu rõ.

Đồng quan điểm, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho hay: quản trị công ty ở các nước rất đề cao quyền cổ đông. Xu hướng các nước là làm sao để người dân bỏ vào ít vốn nhưng cũng được bảo đảm quyền lợi.

Việc giảm tỷ lệ nắm giữ cổ phần là bao nhiêu: 1%, 2% hay 3% thì còn phải xem xét kỷ. Tuy nhiên, theo ông Tuấn, tỷ lệ 1% là hợp lý, vì 1% là một tỷ lệ không hề nhỏ đối với một nhà đầu tư, nên bản thân họ phải hành động dựa trên lợi ích của 1% đó.

Đại diện cho các nhà đầu tư nước ngoài (VAFIE), GS.,TSKH, Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài, lưu ý cần có các biện pháp bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, bởi đây là yếu tố quan trọng trong việc thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài.

“Điều khoản về bảo đảm đầu tư khi có sự thay đổi của pháp luật đã được quy định tại Điều 13 của Luật Đầu tư. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ dừng lại ở sự thay đổi văn bản pháp luật về ưu đãi đầu tư; trong khi nhà đầu tư đòi hỏi nhiều hơn thế, bao gồm: bảo đảm quyền sở hữu tài sản, bảo đảm chuyển tài sản và lợi nhuận hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài, bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật, bảo đảm đầu tư đối với hoạt động đầu tư kinh doanh”, ông Mại nói.

Chủ tịch VAFIE cũng nhấn mạnh cần có một chương trình “Bảo đảm đầu tư” để quy định đầy đủ các nội dung có liên quan đến quyền lợi nhà đầu tư, gồm bảo đảm quyền sở hữu tài sản; bảo đảm chuyển tài sản, lợi nhuận hợp pháp của nhà đầu tư ra nước ngoài; bảo đảm đầu tư trong trường hợp thay đổi pháp luật và bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư kinh doanh.