Xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021, Bộ đang khẩn trương xây dựng Dự thảo Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025.

Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước đã được triển khai thực hiện ngay từ đầu giai đoạn chiến lược 2011-2020 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của giai đoạn mới, từ nước có thu nhập trung bình thấp lên nước có thu nhập trung bình cao.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 24/2016/QH14 ngày 08-11-2016 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 21-02-2017 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện hai Nghị quyết trên.

Kết thúc giai đoạn 2016-2020, cơ cấu lại nền kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực. Mô hình tăng trưởng dần chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt. Cơ cấu lại nền kinh tế với 3 trụ cột chính là đầu tư công, các tổ chức tín dụng và DNNN đã mang lại nhiều kết quả tích cực.

Tuy nhiên, tốc độ cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Trong khi đó, bối cảnh phát triển mới đang đặt ra nhiều thách thức cũng như cơ hội mới, đòi hỏi cần có sự điều chỉnh trọng tâm kế hoạch cho phù hợp.

Đáng chú ý như, củng cố nền tảng vĩ mô để tạo dư địa chính sách, ứng phó với những cú sốc bên ngoài; tăng cường nội lực và khai thác thị trường trong nước; thúc đẩy chuyển đổi số và tăng cường ứng dụng tiến bộ công nghệ, đổi mới sáng tạo, tiến tới làm chủ tiến bộ công nghệ nhằm đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng.


Theo lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc xây dựng Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 dựa trên mục tiêu, quan điểm, định hướng và giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2021-2025, cũng như thực tiễn triển khai quá trình cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 và phân tích, dự báo bối cảnh phát triển đất nước giai đoạn tới.

Cụ thể, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra các mục tiêu phát triển: tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 6,5-7%; đến năm 2025 trở thành nước đang phát triển hướng đến công nghiệp hiện đại; đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại và đến năm 2045 trở thành nước phát triển.

Nhiệm vụ được đặt ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là tổ chức thực hiện hiệu quả và thực chất các nội dung cơ cấu lại nền kinh tế để đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng năng suất lao động nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh. Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 được xây dựng nhằm cụ thể hóa và tổ chức triển khai nhiệm vụ trên.

Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 cũng được xây dựng trên cơ sở báo cáo kết quả và định hướng cơ cấu nền kinh tế của các Bộ, ngành, địa phương; khảo sát tại một số địa phương và các buổi trao đổi, tham vấn với các nhà khoa học, các chuyên gia và đại diện một số hiệp hội, doanh nghiệp.

Dự kiến, Chính phủ sẽ trình Quốc hội Dự thảo Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV.
 

Các doanh nghiệp cần lưu ý quy định hoàn thuế giá trị gia tăng để không bị phạt chậm nộp

Nếu không làm theo nguyên tắc nộp phạt chậm nộp sẽ xảy ra tình trạng DN lạm dụng chiếm dụng tiền hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) cho đến trước khi buộc phải nộp lại.

Vừa qua, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) phản ánh về việc có DN khi xuất khẩu hàng hóa xuất khẩu thuỷ sản được hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT) nhưng sau một thời gian sau, vì lý do nào đó mà khách hàng trả lại hàng. DN phải làm thủ tục tái nhập lại hàng, đồng thời, ngoài việc kê khai và nộp lại tiền hoàn thuế GTGT đã nhận, còn phải nộp thêm tiền phạt chậm nộp.

VASEP cho rằng, việc DN phải nộp lại khoản hoàn thuế GTGT là đúng nhưng bị phạt tiền chậm nộp tính từ lúc xuất khẩu lô hàng là không công bằng đối với DN.

Cụ thể, căn cứ Khoản 3 Điều 1 của Luật số 106/2016/QH13: trường hợp cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế giá trị gia tăng (GTGT) đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT theo tháng, quý.

Căn cứ Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31-12-2013 của Bộ Tài chính quy định về điều kiện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng hóa xuất khẩu là phải có chứng từ thanh toán tiền hàng hoá xuất khẩu qua ngân hàng và các chứng từ khác theo quy định của pháp luật (số DN này được hoàn toàn bộ thuế GTGT đầu vào).

Đối với hàng hóa xuất khẩu bị trả lại, khách hàng nước ngoài không thực hiện thanh toán cho cơ sở kinh doanh tại Việt Nam, do đó cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán tiền hàng hóa xuất khẩu qua ngân hàng, không đáp ứng đủ điều kiện áp dụng thuế suất 0% đối với phần hàng hóa xuất khẩu bị trả lại (không đủ điều kiện hoàn thuế GTGT).

Như vậy, hàng hóa xuất khẩu bị khách hàng nước ngoài trả lại, nhập khẩu về nước thì hàng hóa đó không còn là hàng hóa xuất khẩu, không thuộc trường hợp được áp dụng hoàn thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu theo quy định của pháp luật.

DN cần thực hiện khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả và nộp lại số tiền thuế GTGT đã được hoàn tương ứng với giá trị hàng hoá xuất khẩu bị trả lại.

Tại khoản 1.c Điều 59 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-07-2020) đã có quy định về xử lý tiền chậm nộp đối với trường hợp người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả.

Theo đó, người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế làm giảm số tiền thuế đã được hoàn trả hoặc cơ quan quản lý thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra phát hiện số tiền thuế được hoàn nhỏ hơn số tiền thuế đã hoàn thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền thuế đã hoàn trả phải thu hồi kể từ ngày nhận được tiền hoàn trả từ ngân sách nhà nước.

Chuyên gia Nguyễn Thị Cúc, Chủ tịch Hội tư vấn thuế Việt Nam phân tích: cách xác định số tiền chậm nộp, tại Khoản 4, Khoản 5 Điều 133 Thông tư 38/2015/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung tại khoản 66 Điều 1 Thông tư 39/2018/TT-BTC có quy định “Số tiền chậm nộp bằng mức tính số tiền chậm nộp nhân số ngày chậm nộp tiền thuế nhân số tiền thuế chậm nộp.  Mức tính số tiền chậm nộp là 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp”.

Số ngày chậm nộp tiền thuế được tính từ ngày tiếp sau ngày cuối cùng của thời hạn nộp thuế, thời hạn gia hạn nộp thuế…

Hiện nay, để theo dõi và đôn đốc thu nộp tiền chậm nộp, hệ thống kế toán tập trung đã thiết lập tự động tính số tiền chậm nộp sau khi DN đã nộp tiền thuế nợ vào ngân sách Nhà nước (NSNN).

Thực tế, các DN đã được tạo điều kiện thuận lợi, hoàn trước và kiểm tra sau. Các DN được tự tính, tự khai tự nộp, nên nếu các DN hoàn thuế rồi nhưng không đủ điều kiện thì phải hoàn trả các khoản nợ thuế theo quy định. Điều này là cần thiết vì nếu không làm theo nguyên tắc nộp phạt chậm nộp trên sẽ xảy ra tình trạng DN lạm dụng chiếm dụng tiền hoàn thuế cho đến trước khi buộc phải nộp lại”, bà Nguyễn Thị Cúc phân tích.

Theo các chuyên gia, việc các DN phải trả tiền chậm nộp theo quy định là hợp lý vì thực chất các DN được tạm hoàn thuế trước, thì cũng đã được hưởng phần lãi ngân hàng. Nếu tính trên số tiền thuế được hoàn trước có lúc lên tới hàng tỷ đồng thì số tiền DN được hưởng lợi không phải nhỏ. Thực tế, cũng đã có DN có cố tình lợi dụng, chiếm dụng tiền vốn nhà nước. Do đó, phần phạt chậm nộp 0,03%/ngày là thấp hơn lãi suất ngân hàng được tính một cách tự động là điều công bằng cho các bên.

Cơ quan thuế cho biết thêm, thời gian qua, đã có nhiều chính sách tài khoá hỗ trợ cho DN bị thiệt hại do COVID-19. Riêng trong năm 2020, ngành thuế luôn đồng hành, lắng nghe ý kiến, nắm bắt khó khăn của DN để báo cáo cấp có thẩm quyền thực hiện các gói giảm, giãn thuế để hỗ trợ cho DN.

Ngay từ quý I/2020, Bộ Tài chính đã có giải pháp báo cáo Chính phủ để thực hiện thông qua Nghị định 41 về gia hạn GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN).

Tổng số tiền thuế và thu ngân sách đã gia hạn, miễn, giảm theo các chính sách đã ban hành ước thực hiện cả năm đạt khoảng 123,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, số tiền thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất được gia hạn khoảng 87,3 nghìn tỷ đồng; số được miễn, giảm khoảng 36,4 nghìn tỷ đồng. 

Tổng cục Thuế cũng đã chủ động nghiên cứu, báo cáo cấp có thẩm quyền ban hành nhiều chính sách giảm, gia hạn tiền thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất. Năm 2021, ước tính số thuế, tiền thuê đất được gia hạn khoảng 115.000 tỷ đồng.

Mới đây nhất, để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, Bộ Tài chính đã chủ động trình Chính phủ ban hành hàng loạt chính sách gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất, miễn giảm lệ phí trước bạ…, nhằm giúp doanh nghiệp có dòng tiền duy trì sản xuất kinh doanh. Mới đây nhất, ngày 31/3, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 44/2021/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện về chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của DN tổ chức cho các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19.

Các chuyên gia cho rằng, COVID-19 khiến các DN gặp nhiều khó khăn chung. Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, tuy nhiên, vẫn phải rành mạch. Các DN vẫn cần tuân thủ các quy định, nguyên tắc, thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, bảo đảm công bằng, hài hoà lợi ích giữa các DN với nhau cũng như giữa DN và nhà nước. 
 

Cải cách hệ thống thuế hướng đến quản lý bằng điện tử

Để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hướng đến một thể chế chính sách thuế minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế…, Tổng cục Thuế đang hoàn thiện dự thảo chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu điện tử hóa công tác quản lý thuế.

Tổng cục Thuế cho biết, để đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế, Tổng cục Thuế đang khẩn trương nghiên cứu và phối hợp với các đơn vị có liên quan để hoàn thiện dự thảo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Cũng theo lãnh đạo Tổng cục Thuế, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 sẽ được triển khai thành 2 giai đoạn. Giai đoạn từ 2021 – 2025 và giai đoạn từ 2026 – 2030. Việc chia thành 2 giai đoạn nhằm đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu, tạo tiền đề để ngành Thuế triển khai thắng lợi toàn bộ Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Các mục tiêu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 gồm: 

Thứ nhất, đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững của quy mô nguồn lực, có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho ngân sách nhà nước, góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp quản lý rủi ro, đồng thời dựa trên nền tảng thuế điện tử và ba trụ cột cơ bản (thể chế quản lý thuế đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập). Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới. Công nghệ thông tin hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế số.

“Chiến lược giai đoạn này phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp…” – ông Tuấn cho biết.

Chiến lược cũng nhằm tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.

Trước đó, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, sau 10 năm triển khai Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước.

Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính. Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.
 

Cải cách hệ thống thuế hướng đến quản lý bằng điện tử

Để thực hiện cải cách thủ tục hành chính, hướng đến một thể chế chính sách thuế minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế…, Tổng cục Thuế đang hoàn thiện dự thảo chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu điện tử hóa công tác quản lý thuế.

Tổng cục Thuế cho biết, để đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người nộp thuế, Tổng cục Thuế đang khẩn trương nghiên cứu và phối hợp với các đơn vị có liên quan để hoàn thiện dự thảo Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Cũng theo lãnh đạo Tổng cục Thuế, Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 sẽ được triển khai thành 2 giai đoạn. Giai đoạn từ 2021 – 2025 và giai đoạn từ 2026 – 2030. Việc chia thành 2 giai đoạn nhằm đảm bảo thực hiện đúng các mục tiêu, tạo tiền đề để ngành Thuế triển khai thắng lợi toàn bộ Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030.

Các mục tiêu của Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2021 – 2030 gồm: 

Thứ nhất, đổi mới đồng bộ hệ thống chính sách thuế để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó đảm bảo tính ổn định, bền vững của quy mô nguồn lực, có mức động viên hợp lý các nguồn lực cho ngân sách nhà nước, góp phần thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh phù hợp với quá trình hội nhập, phát triển của nền kinh tế.

Thứ hai, xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, tập trung, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo phương pháp quản lý rủi ro, đồng thời dựa trên nền tảng thuế điện tử và ba trụ cột cơ bản (thể chế quản lý thuế đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập). Nguồn nhân lực chuyên nghiệp, liêm chính, đổi mới. Công nghệ thông tin hiện đại, tích hợp, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong bối cảnh kinh tế số.

“Chiến lược giai đoạn này phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp…” – ông Tuấn cho biết.

Chiến lược cũng nhằm tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.

Trước đó, theo báo cáo của Tổng cục Thuế, sau 10 năm triển khai Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mức động viên hợp lý nhằm tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô có hiệu quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước.

Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xây dựng ngành Thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: thể chế chính sách thuế minh bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ quốc tế; nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính. Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao.
 
 

[CHIA SẺ] 12 nguyên lý toán học có ích trong đầu tư

Nói đến đầu tư, thực ra nó rất giống và có liên quan mật thiết tới một môn học của chúng ta đó là Toán học. Theo quan sát, những người có tố chất toán học thường sẽ giỏi hơn trong việc đầu tư và quản lý tài chính. Bởi họ luôn biết cách tính toán, tận dụng từng đồng tiền để kiếm tiền.

Do vậy, việc hiểu và vận dụng thành thạo một số nguyên lý toán học cần thiết rất hữu ích. Ít nhất nó có thể giúp bạn không tính sai lãi suất khi gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng. Mỗi một khoản đầu tư, chúng ta đều phải tính toán một cách kỹ lưỡng về thời hạn, gốc lãi sau khi hết hạn là bao nhiêu? Đầu tư thêm bao lâu nữa sau khi hết hạn sẽ có lợi nhất…

1. Tý suất hoàn vốn 

Ví dụ bạn có 100 triệu. Tài sản sau khi có được lợi nhuận 100% là 200 triệu. Nếu tiếp sau đó thua lỗ 50%. Tài sản sẽ trở về mức 100 triệu. Dĩ nhiên thua lỗ 50% dễ dàng hơn rất nhiều so với lợi nhuận 100%.

2, Giới hạn tăng và giới hạn giảm 

Ví dụ bạn có 100 triệu, ngày thứ nhất tăng giá, tài sản của bạn đạt mức 110 triệu. Ngày thứ hai sụt giá, tài sản của bạn chỉ còn 99 triệu. Ngược lại nếu ngày thứ nhất giảm, ngày thứ hai tăng, tài sản của bạn vẫn là 99 triệu.

3, Biến động 

Nếu bạn có 100 triệu. Năm thứ nhất kiếm được 40%. Năm thứ hai thua lỗ 20%. Năm thứ 3 lãi 40%. Năm thứ 4 thua lỗ 20%. Năm thứ 5 lãi 40%, năm thứ 6 thua lỗ 20%. Tài sản còn lại là 140.5 triệu. Tỷ suất hoàn vốn năm trong vòng 6 năm chỉ là 5.83%.

4, Mỗi ngày

Nếu bạn có 100 triệu. Mỗi ngày không cần phải tăng giảm này nọ. Chỉ cần kiếm 1% lợi nhuận rồi rút lui. Vậy nếu mỗi năm có 250 lượt giao dịch, tài sản của bạn sẽ đạt mức khoảng 1,203,215,000. Sau 2 năm bạn có thể ngồi và hưởng thụ số tiền khoảng 14,477,277,000.

5, Mỗi năm 200%

Nếu bạn có 100 triệu đồng. Nếu tỷ suất lợi nhuận trong vòng 5 năm liên tục là 200%. Vậy sau năm bạn sẽ bạn sẽ có khoảng 24,300,000,000 tài sản cá nhân. Dĩ nhiên lợi nhuận với mức cao như vậy là điều rất khó để duy trì.

6, 10 năm 10 lần

Nếu bạn có 100 triệu. Hy vọng 10 năm sau sẽ có 1 tỷ. Sau 20 năm là 10 tỷ, sau 30 năm là 100 tỷ. Vậy tỷ suất lợi nhuận năm của bạn sẽ phải là 25.89%.

7. Cover hàng

Ví dụ bạn mua 100 triệu cổ phiếu khi giá của nó là 10 nghìn. Nếu giảm xuống 5 nghìn mua thêm 100 triệu. Chi phí tồn kho sẽ giảm xuống 66,700 chứ không phải là 77,500 như trong tưởng tượng của bạn.

8. Chi phí tồn kho

Nếu bạn có 100 triệu, đầu tư một loại cổ phiếu nào đó với lợi nhuận 10%. Khi bạn đưa ra quyết định bán, hãy thử giữ lại 10 triệu cổ phiếu theo giá thị trường. Vậy thì chi phí tồn kho của bạn sẽ = 0. Bạn sẽ hoàn toàn có thể lưu trữ nó mà không có bất cứ áp lực gì.

Nếu bạn nhìn thấy công ty có triển vọng phát triển tốt. Bạn có thể giữ lại khoảng 20 triệu cổ phiếu. Bạn sẽ phát hiện ra rằng tỷ suất lợi nhuận sẽ tăng từ 10% lên tới 100%. Nhưng đừng vội đắc ý, bởi nếu khi đó cổ phiếu giảm vượt quá 50%. Bạn có thể sẽ phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ.

9, Tổ hợp tài sản

Có tài sản A không có rủi ro (mỗi năm 5%) và tài sản B có rủi ro (mỗi năm 20-40%). Nếu bạn có 100 triệu, bạn có thể đầu tư 80 triệu vào tài sản không có rủi ro A và 20 triệu vào tài sản có rủi ro B.
Lợi nhuận toàn năm ở mức thấp nhất có thể là 0. Nhưng lợi nhuận cao nhất có thể sẽ là 12%. Đây chính là mô hình kỹ thuật CPPI kiểu mẫu được áp dụng vào trong quỹ bảo toàn vốn.

10, Bán khống

Bạn có 100 triệu, bán khống một loại cổ phiếu nào đó. Có thể bạn sẽ có mức tỷ suất lợi nhuận cao nhất là 100%. Nhưng tiền đề là số cổ phiếu bán khống phải hết sạch.

Hơn nữa nếu làm nhiều, tỷ suất lợi nhuận sẽ không có giới hạn trên. Do vậy đừng liên tục bán khống, nếu bạn không tin xã hội nhân loại luôn tiến bộ đi lên.

11, Lợi nhuận Casinno

Sau khi phân tích 1000 số liệu tại casinno ở Ma Cao. Phát hiện tỷ lệ thắng bại là 53% và 47%. Trong đó, lợi nhuận bình quân của những người thắng cuộc có được là 34%. Còn những người thua cuộc thua lỗ khoảng 72%.
Casino không cần phải can thiệp vào kết quả thắng bại. Đảm bảo công bằng trong việc thắng lợi liên tục dựa vào điểm yếu tính cách con người. Thị trường cổ phiếu cũng như vậy.

12, Tương lai của tiền tệ 

Ví dụ bạn gửi 10 triệu tiền tiết kiệm vào ngân hàng cho cháu của mình. Lãi suất năm là 5%, vậy thì sau 20 năm số tiền mà bạn có sẽ là khoảng 173 tỷ. Nếu tốc độ tăng trưởng phát hành tiền tệ quốc gia duy trì ở mức trên 10%.
Giả sử hiện nay số dư tiền gửi tiết kiệm M2 là 107 nghìn tỷ, tốc độ tăng trưởng bình quân năm là 14%. 100 năm sau tổng lượng tiền tệ sẽ đột phá đạt mức 1,474,522 tỷ.

Tính trên mức dân số 2 tỷ người, tiền tiết kiệm bình quân mỗi người sẽ là 737 triệu. (Chưa kể bất động sản, trái phiếu, đồ cổ và các loại tài sản khác).

Điều này hiển nhiên sẽ không thể xảy ra. Tốc độ tăng trưởng phát hành tiền tệ sẽ dần giảm xuống tới mức thấp hơn 2%.

Tỷ suất lợi nhuận mỗi năm là 20%. Đến khi ấy, con người chúng ta mới thực sự ý thức được mọi việc thực sự không dễ chút nào.

Tóm lại, đầu tư thành công cần phải có đủ 3 điều kiện: một là phòng ngừa rủi ro, giữ tiền gốc. Hai là giảm thiểu biến động, ổn định doanh thu. Ba là đầu tư dài hạn, tăng trưởng lợi nhuận kép.
Bốn lời khuyên để đầu tư thành công: một là tổ hợp tài sản một cách hợp lý. Hai là không nên thử bán khống một cách dễ dàng. Ba là cố gắng khắc phục nỗi sợ và lòng tham của con người. Bốn là càng là nguy cơ thì càng đáng để nắm giữ.

Quản lý rủi ro: Khuyến khích người nộp thuế tự nguyện tuân thủ pháp luật

Luật Quản lý thuế giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định tiêu chí đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, phân loại mức độ rủi ro và việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

Theo đó, một trong những giải pháp được Bộ Tài chính sử dụng là tăng cường áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về thuế và quản lý thuế.

Quy định bao quát, toàn diện hơn

Căn cứ vào quy định của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Nghị định 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo thông tư quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế, lấy ý kiến góp ý rộng rãi.

Bộ Tài chính cho biết, việc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật trước đó. Tuy nhiên, quá trình triển khai áp dụng thời gian qua cho thấy một số nội dung cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng yêu cầu cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

Cũng theo Bộ Tài chính, nội dung dự thảo thông tư này quy định một cách bao quát, toàn diện; việc áp dụng quản lý rủi ro xuyên suốt trong các chức năng, nghiệp vụ quản lý thuế từ đăng ký thuế, khai thuế, nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, hoàn thuế, kiểm tra, thanh tra thuế, quản lý hóa đơn, chứng từ và các chức năng, nghiệp vụ quản lý thuế khác.

Đặc biệt, dự thảo thông tư quy định công khai các tiêu chí đánh giá tuân thủ pháp luật thuế và mức độ rủi ro người nộp thuế (NNT), nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong đánh giá NNT, đồng thời cũng để NNT tự so chiếu các tiêu chí đánh giá để hoàn thiện, từ đó nâng cao tính tuân thủ tự nguyện của NNT.

Theo đó, dự thảo thông tư của Bộ Tài chính giao Tổng cục Thuế có trách nhiệm ban hành các chỉ số tiêu chí, giúp cho cơ quan thuế các cấp triển khai công tác quản lý rủi ro được linh hoạt, chủ động trong việc thay đổi các chỉ số tiêu chí cho phù hợp với thực tế quản lý thuế trong từng thời kỳ; góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính không cần thiết.

Việc kiểm soát, giám sát trọng điểm đối với NNT có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, dự thảo thông tư quy định NNT có một trong các dấu hiệu sau: 

Thứ nhất, NNT thực hiện các giao dịch qua ngân hàng có dấu hiệu đáng ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền có liên quan đến trốn thuế, gian lận thuế.

Thứ hai, NNT hoặc người đại diện hợp pháp của NNT bị khởi tố về các hành vi vi phạm về thuế, hóa đơn, chứng từ.

Thứ ba, NNT có dấu hiệu rủi ro cao về thuế thuộc chuyên đề trọng điểm hoặc qua thu thập thông tin từ công tác quản lý của cơ quan thuế cần giám sát quản lý thuế.

Thứ tư, NNT được lựa chọn từ danh sách NNT thuộc mức không tuân thủ pháp luật thuế quy định tại điều 10 thông tư này, danh sách NNT thuộc mức rủi ro rất cao, rủi ro cao theo quy định tại điều 11 thông tư này và NNT không giải trình, bổ sung thông tin hoặc có giải trình, bổ sung thông tin nhưng không đầy đủ theo yêu cầu và thời hạn tại thông báo bằng văn bản của cơ quan quản lý thuế. 

Dự thảo thông tư giao, cơ quan thuế các cấp có trách nhiệm theo dõi, giám sát, áp dụng các biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế phù hợp với từng trường hợp. Riêng Tổng cục Thuế, chịu trách nhiệm quy định cụ thể việc thu thập, phân tích thông tin, xác định trọng điểm giám sát, biện pháp giám sát phù hợp với quy định của pháp luật trong từng thời kỳ.

Nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Để nâng cao tính tuân thủ pháp luật của NNT, dự thảo thông tư dành riêng chương IV gồm 14 điều quy định chi tiết việc nâng cao mức tuân thủ của NNT và áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế. Theo đó, dự thảo thông tư quy định, căn cứ kết quả đánh giá tuân thủ pháp luật thuế được quy định, cơ quan thuế thực hiện phân tích bản chất hành vi, quy mô của mỗi mức độ tuân thủ pháp luật thuế của NNT, xây dựng kế hoạch nâng cao tuân thủ pháp luật thuế với các biện pháp xử lý phù hợp với mỗi vấn đề tuân thủ.

Đối với việc áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra, căn cứ danh sách NNT phân loại theo các mức rủi ro, cơ quan thuế lựa chọn các trường hợp thanh tra, kiểm tra tại trụ sở NNT. Trường hợp được lựa chọn qua phân tích, đánh giá phân loại tuân thủ và xếp hạng mức độ rủi ro không dưới 90% số lượng trường hợp được thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm. Trường hợp được lựa chọn ngẫu nhiên không quá 10% số lượng trường hợp được thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm.

Việc lựa chọn NNT có dấu hiệu rủi ro để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế phải tránh trùng lặp, chồng chéo theo quy định tại Luật Quản lý thuế, Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành. Định kỳ, cơ quan thuế rà soát các trường hợp NNT không tuân thủ, có dấu hiệu rủi ro cao để lựa chọn bổ sung vào kỳ kế hoạch thanh tra kiểm tra điều chỉnh hàng năm hoặc thanh tra đột xuất.
 

Hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế

Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 19/2021/TT-BTC hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế. Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 03-05-2021.

Chứng từ điện tử trong giao dịch thuế điện tử

Theo Thông tư số 19/2021/TT-BTC ngày 18-03-2021 của Bộ Tài chính, chứng từ điện tử là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu trữ bằng phương thức điện tử khi người nộp thuế, cơ quan thuế, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan thực hiện giao dịch thuế điện tử.

Chứng từ nộp ngân sách nhà nước (NSNN) điện tử bao gồm: Chứng từ nộp NSNN theo quy định tại Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20-01-2020 về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước dưới dạng điện tử; các thông báo, quyết định, văn bản khác của cơ quan thuế dưới dạng điện tử.

Trường hợp nộp thuế qua hình thức nộp thuế điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thì chứng từ nộp NSNN là chứng từ giao dịch của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải đảm bảo đủ các thông tin trên mẫu chứng từ nộp NSNN.

Các chứng từ điện tử nêu trên phải được ký điện tử theo quy định. Trường hợp hồ sơ thuế điện tử có các tài liệu kèm theo ở dạng chứng từ giấy phải được chuyển đổi sang dạng điện tử theo quy định tại Luật Giao dịch điện tử, Nghị định số 165/2018/NĐ-CP ngày 24-12-2018 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính.

05 phương thức giao dịch thuế điện tử

Có nhiều phương thức giao dịch thuế điện tử để người nộp thuế lựa chọn như: Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính đã được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác đã được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN được Tổng cục Thuế chấp nhận kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; Dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán để thực hiện nộp thuế điện tử.

Bộ Tài chính quy định, người nộp thuế có thể thực hiện các giao dịch thuế điện tử 24/7, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày tết. Ngược lại, thời gian cơ quan Thuế gửi thông báo, quyết định, văn bản cho người nộp thuế được xác định là trong ngày nếu hồ sơ được ký gửi thành công trong cả 24 giờ mỗi ngày.

Việc tổ chức thực hiện giao dịch điện tử theo quy định tại Thông tư này được thực hiện theo lộ trình cải cách thủ tục hành chính của cơ quan thuế.

Theo đó, việc triển khai truyền, nhận, hạch toán thông tin thu, nộp NSNN theo “mã tham chiếu” được thực hiện khi Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước, ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản, Ngân hàng/tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có kết nối với Cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế hoàn thành việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng theo quy định, đảm bảo đáp ứng yêu cầu hạch toán thu NSNN, trao đổi, đối chiếu và hạch toán thu NSNN của Kho bạc nhà nước, cơ quan thuế, ngân hàng/tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.

Trong thời gian Tổng cục Thuế, Kho bạc Nhà nước, ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản, Ngân hàng tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán có kết nối với Cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế chưa triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đáp ứng thì việc truyền, nhận, hạch toán thông tin thu, nộp NSNN vẫn thực hiện truyền đầy đủ các thông tin trực tiếp từ ngân hàng tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đến ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản và tới Kho bạc Nhà nước để đảm bảo đáp ứng được yêu cầu hạch toán thu NSNN của Kho bạc Nhà nước .

Thông tư số 19/2021/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 03-05-2021 và thay thế Thông tư số 110/2015/TT-BTC và Thông tư số 66/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 110/2015/TT-BTC về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.

Theo đó, Hồ sơ thuế điện tử bao gồm: hồ sơ đăng ký thuế; hồ sơ khai thuế; xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ thuế; tra soát thông tin nộp thuế; thủ tục bù trừ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa; hồ sơ hoàn thuế; hồ sơ miễn giảm thuế; miễn tiền chậm nộp; không tính tiền chậm nộp; hồ sơ khoanh tiền thuê nợ, hồ sơ xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt, gia hạn nộp thuế; nộp dần tiền thuế nợ và các hồ sơ, văn bản khác về thuế dưới dạng điện tử được quy định tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn Luật Quản lý thuế.

Dòng vốn FDI vào Việt Nam hồi phục mạnh mẽ trong tháng 2/2021

Báo cáo cập nhật Tình hình Kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 3/2021 của Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố cho thấy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hồi phục mạnh mẽ vào tháng 2/2021 sau hai tháng chững lại.

Theo đó, vào tháng 2/2021, Việt Nam đã thu hút được 3,4 tỷ USD vốn FDI, cao hơn 70,4% so với tháng 01/2021 (khoảng 2,02 tỷ USD) và tăng gấp ba lần giá trị vốn FDI so với cùng kỳ năm 2020.

Như vậy, sau khi giảm nhẹ vào tháng 1/2021, sự gia tăng về vốn FDI vào Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19, được WB lý giải là do được thúc đẩy bởi hoạt động đăng ký cấp mới (tăng 265,7% so với cùng kỳ năm trước) và tăng vốn (tăng 273,0% so với cùng kỳ năm trước). 

Trong đó, xuất hiện các dự án lớn như: dự án Nhà máy nhiệt điện Ô Môn II trị giá 1,31 tỷ USD được cấp phép tại Cần Thơ hay dự án Nhà máy sản xuất mô-đun tấm nền OLED trị giá 750 triệu USD tại Hải Phòng…  Những dự án “khủng” được cấp chứng nhận đầu tư trong tháng 2/2021 đã góp phần quan trọng để xoay chuyển tình hình thu hút đầu tư nước ngoài trong 2 tháng đầu năm nay.

WB cũng nhận định, việc nhanh chóng kiểm soát đợt bùng phát dịch Covid-19 mới cuối tháng 1 vừa qua đã giúp duy trì triển vọng phục hồi kinh tế tích cực của Việt Nam trong năm 2021. WB cũng khuyến cáo, Việt Nam cần đặc biệt chú ý đến việc triển khai tiêm vắc-xin phòng Covid-19 vì hoạt động này sẽ tác động đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. 

Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), hiện nay tại nhiều địa phương như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Đồng Nai, Bình Dương… cũng đang sẵn sàng chờ đợi các dự án mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã khiến các địa phương liên tục đề xuất việc mở rộng các khu công nghiệp mới trong năm ngoái và giờ là lúc các đề xuất đó trở thành hiện thực. Trong hai tháng đầu năm 2021, Chính phủ liên tục chấp thuận chủ trương cho các địa phương xây mới hoặc mở rộng các khu công nghiệp cũ.

Trong đó, Bắc Giang đang là một trong những địa phương nhận được nhiều sự ủng hộ nhất. Cụ thể, Thủ tướng Chính phủ vừa đồng ý bổ sung Khu công nghiệp Yên Lư (diện tích 377 ha), Khu công nghiệp Yên Sơn – Bắc Lũng (300 ha), Khu công nghiệp Tân Hưng (105,3 ha) vào quy hoạch. Đồng thời, mở rộng Khu công nghiệp Quang Châu thêm 90 ha, Khu công nghiệp Hòa Phú tăng thêm 85 ha, Khu công nghiệp Việt Hàn thêm 148 ha…

Hải Dương cũng là địa phương vừa được đồng ý về chủ trương cho đầu tư Khu công nghiệp An Phát 1. Ngoài ra, tỉnh Bình Dương, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Đồng Nai cũng đã lần lượt được phép xây dựng thêm các khu công nghiệp mới để sẵn sàng đón dòng vốn đầu tư bùng nổ.

Qua các dự án lớn đã và sắp được các nhà đầu tư nước ngoài "rót vốn" đầu tư vào Việt Nam cho thấy, Việt Nam luôn là một trong những điểm đến được ưa chuộng đối với các nhà đầu tư quốc tế và cũng là một trong những nước được hưởng lợi từ làn sóng chuyển dịch chuỗi cung ứng trước diễn biến căng thẳng thương mại Mỹ – Trung.

Nguồn:tapchitaichinh

Cách nhận biết doanh nghiệp rủi ro cao về thuế

Cách nhận biết doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế

Rủi ro cao về thuế không chỉ ảnh hưởng tới doanh nghiệp mà còn tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp cùng ngành nghề, lĩnh vực, thậm chí là cả nền kinh tế. Làm cách nào để nhận biết doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế.

Theo khoản 2 Điều 11 Thông tư 39/2014/TT-BTC: Các doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế là các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu dưới 15 tỷ đồng và có một trong những dấu hiệu sau đây:

  1. Không có quyền sở hữu, quyền sử dụng hợp pháp các cơ sở vật chất như: Nhà máy; xưởng sản xuất; kho hàng; phương tiện vận tải; cửa hàng và các cơ sở vật chất khác.
  2. Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực khai thác đất, đá, cát, sỏi.
  3. Doanh nghiệp có giao dịch qua ngân hàng đáng ngờ theo quy định của pháp luật về phòng, chống rửa tiền.
  4. Doanh nghiệp có doanh thu từ việc bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp khác. Mà chủ các doanh nghiệp này có mối quan hệ cha mẹ, vợ chồng, anh chị em ruột hoặc quan hệ liên kết sở hữu chéo chiếm tỷ trọng trên 50% trên tổng doanh thu kinh doanh trên Tờ khai quyết toán thuế TNDN của năm quyết toán.
  5. Doanh nghiệp không thực hiện kê khai thuế theo quy định:
    • Không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế. Hoặc kể từ ngày bắt đầu hoạt động kinh doanh theo giấy phép đăng ký kinh doanh;
    • Nghỉ kinh doanh quá thời hạn đã thông báo tạm nghỉ kinh doanh với cơ quan thuế và cơ quan thuế kiểm tra xác nhận doanh nghiệp có sản xuất kinh doanh nhưng không kê khai thuế;
    • Không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ đã đăng ký kinh doanh và không khai báo với cơ quan thuế hoặc cơ quan thuế kiểm tra không xác định được nơi đăng ký thường trú, tạm trú của người đại diện theo pháp luật, chủ doanh nghiệp.
  6. Người đại diện theo Pháp luật của doanh nghiệp bị khởi tố về tội trốn thuế, tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước.
  7. Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có sự thay đổi địa chỉ kinh doanh từ 2 lần trở lên trong vòng 12 tháng mà không khai báo theo quy định hoặc không kê khai, nộp thuế ở nơi đăng ký mới theo quy định.
  8. Doanh nghiệp có dấu hiệu bất thường khác theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế của cơ quan thuế.

Sự suy thoái của các startup tỷ USD đình đám (Phần 2)

Airbnb và bài học cho việc đốt tiền vào Marketing không đúng cách

Airbnb là startup được đánh giá là sáng sủa nhất trong các dự án cùng thời. Tuy nhiên, các báo cáo gần đây cho thấy công ty này đang thua lỗ nghiêm trọng do chi quá nhiều vào marketing. Sự thoái trào của We work và Uber gây ảnh hưởng không nhỏ đến với Airbnb khi các nhà đầu tư nhìn thấy viễn cảnh những công ty chỉ biết đốt rất nhiều tiền mà không mang lại hiệu quả gì to lớn. Điều đó ảnh hưởng cực kỳ lớn đối với Airbnb khi họ sắp IPO.

Marketing là một công việc đốt tiền để mang lại những hiệu quả khác nhau như: sự nổi tiếng, sự quan tâm đặc biệt hay đơn giản chỉ là nói cho mọi người biết tôi tồn tại. Marketing thực sự là một cuộc đầu tư tiền bạc cho danh vọng và chiến lược lâu dài của doanh nghiệp. Marketing không mang lại lợi nhuận trực tiếp hay những lợi ích ngắn hạn. Marketing là sự đầu tư cho một chiến lược phát triển dài hạn. Hôm nay bạn có thể không có nhu cầu nhưng không có nghĩa là sau này sẽ không có. Và điều đó cũng không đồng nghĩa với việc bây giờ chúng tôi chưa tiếp cận bạn. Chúng tôi sẽ khiến cho bạn nhớ đến thương hiệu của chúng tôi. Khi bạn có nhu cầu thì thương hiệu của chúng tôi là một trong những điều bạn nghĩ đến đầu tiên. Đó là sự thành công của Marketing. Sự thành c ông của Marketing có mang lại lợi nhuận hay thành công của doanh nghiệp hay không còn phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp. Giá trị của sản phẩm mà doanh nghiệp mang lại. Hay thậm chí là bản lĩnh của bộ phận sale và hậu mãi sau khi tiêu dùng sản phẩm.

Thế nên việc Airbnb thua lỗ nặng khi đốt quá nhiều tiền cho Marketing không phải là dấu hiệu của sự thoái trào.  Tuy nhiên, điều này vẫn khiến cho nhiều nhà đầu tư lo lắng khi nhìn vào tiền lệ Uber và We Worrk.

Những startup công nghệ tỷ USD Trung Quốc úa tàn

Ofo – Startup chia sẻ xe đạp đình đám Trung Quốc khi khởi nghiệp chỉ với 20.000 USD nhưng huy động hàng tỷ USD sau đó. Vào năm 2007, start này nổi lên như một startup về công nghệ đình đám giá trị tỷ USD. Sau nhiều năm kinh doanh và phát triển, Ofo dần đi vào bế tắc trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh. Từ việc quản lý, thu hồi xe cho mượn cho đến lợi nhuận kiếm được trên những chiếc xe trở thành vấn đề khó khăn. Hơn nữa ý thức sử dụng xe đạp của nhiều người trở thành vấn nạn cho Ofo. Khi mà không phải ai cũng có ý thức giữ gìn chiếc xe mà mình đã thuê. Bên cạnh đó là phí thuê giành cho mỗi chiếc xe là rất ít so với giá trị đầu tư và chiếc xe. Qua nhiều năm, kinh doanh của Ofo bắt đầu bị trì trệ do không tìm được tiếng nói chung cho phương pháp giải quyết những vấn đề phát sinh. Thua lỗ triền miên và không thấy điểm phát sinh lợi nhuận. Ofo đã đệ đơn xin được phá sản.

Chưa dừng lại ở Ofo, các startup tỷ USD của Trung Quốc cũng liên tục úa tàn khi gặp rắc rối với những vấn đề tương tự. Sự cạnh tranh khốc liệt trong ngành liên tục chèn ép những công ty này đi từ rắc rối này đến rắc rối khác. Khi một công ty non trẻ với người điều hành chập chững bước vào nghề. Thì sẽ thực sự khó khăn để đưa công ty vào một quỹ đạo ổn định đủ lực để đấu với những ông lớn trong nghề. Như cái cách mà người ta ví von Wewwork “Một đứa trẻ mới biết đi xe đạp và người ta đưa cho nó 1 chiếc phân khối lớn để chạy trên đường cao tốc”. Bên cạnh sự canh tranh khốc liệt là sự chần chờ của các nhà đầu tư khi thấy những startup trước đây trong tình trạng suy thoái nặng nề (Weworl, Ofo là một ví dụ), Đi kèm với nó là chiến tranh thương mại Mỹ – Trung cũng là rào cản khó khăn của những startup này. Không thể không nhận định rằng, dù Trung Quốc đang phát triển với tốc độ vượt bậc nhưng Mỹ vẫn đang nắm trong tay quyền lực to lớn để cạnh tranh với Trung Quốc.

Ảnh hưởng từ chiến tranh thương mại Mỹ – Trung

Từ khi Mỹ phát động chiến tranh thương mại với Trung Quốc bằng nhiều biện pháp. Thì dòng tiền vốn hứa chi cho các startup đình đám này có phần bị đình trệ. Không chỉ riêng Mỹ mà rất nhiều nước khác tham gia bằng nhiêu biện pháp gián tiếp như chứng minh bản thân là đồng minh thân thiện của Mỹ. Trung Quốc đang phát triển mạnh mẽ với mức phát triển 2 con số mỗi năm. Nhưng điều đó không có nghĩa là Mỹ đã lụi tàn. Khi Donald Trump lên làm tổng thống, ông bắt đầu thăm dò và rồi phát động chiến tranh thương mại với Trung Quốc. Lấy nhiều lý do như Trung Quốc làm giá đồng tiền CNY để có ưu thế trong thương mại với Mỹ. Hay trốn thuế hàng Trung Quốc tại Mỹ. Tất cả đều chỉ là lý do để thực hiện chiến tranh thương mại với mục đích kiềm nén sự phát triển của Trung Quốc và vực dậy đà phát triển mạnh mẽ của Mỹ.

Ảnh hưởng đến các startup đàn em

Sự suy thoái của các startup tỷ USD đình đámKhông thể nói rằng những startup tỷ đô suy thoái không hề ảnh hưởng đế các startup phía sau. Ngược lại nó ảnh hưởng cực kỳ to lớn khi những nhà đầu tư trở nên e ngại. E ngại những viễn cảnh như Uber, We Work, Theranos lặp lại lần nữa và họ sẽ vướng vào những rắc rối với tổn thất tài chính. Bên cạnh đó họ còn điều tra kỹ càng chi tiết hơn các startup tham dự. Họ sẽ đầu tư một cách cẩn thận hơn và suy xét nhiều vấn đề hơn. Điều này gây khó khăn rất nhiều cho các startup. Bởi vì là một công ty startup thì không thể nào tất cả đều hoàn hảo. Sẽ có những sai sót bất kỳ nào đó có thể cắt đứt hoàn toàn con đường đến với gọi vốn thành công của họ cả.